ナムディン農業高校・神田ブログ・Trường Trung Cấp Nông Nghiệp Nam Định Kanda Blog

ベトナム・ナムディン農業高校が2021年9月に開校されました。この高校は、農業教育をとおしてベトナムと日本の友好をめざすものです。そして、持続可能な自然循環の社会を農業をとおして実現しようとするものです。常に、人類的未来社会への大志をもって、日々の教育実践をブログにアップします。

ホーチミンおじさんから学ぶ青年の生き方・Lối sống thanh niên học Bác Hồ Chí Minh

Lối sống thanh niên học Bác Hồ Chí Minh

Các nhà lãnh đạo giải phóng vĩ đại của nhân loại trong thế kỷ 1 và 20

Nửa sau của thế kỷ 20 là thời đại mà chế độ thuộc địa và chế độ nô lệ lâu dài trên trái đất bị bãi bỏ. Gandhi là nhà lãnh đạo đã giải phóng Ấn Độ, Martin Luther King giành được quyền công dân da đen ở Hoa Kỳ, và Castro là người đặt nền móng cho các ý tưởng giải phóng ở Mỹ Latinh.

Hồ Chí Minh là vị lãnh tụ đã giành độc lập cho Việt Nam. Ý nghĩa nhân văn - lịch sử của nền độc lập của Việt Nam đã chứng tỏ rằng một nước nhỏ cũng có quyền chiến thắng một cường quốc hùng mạnh và bạo ngược.

Công lý của Việt Nam được nhiều người trên thế giới đồng tình. Và vòng tròn hỗ trợ quốc tế đang mở rộng. Đặc biệt, đã có một làn sóng phản đối chiến tranh Việt Nam tại Hoa Kỳ. Tại Nhật Bản, vốn là căn cứ tiền tiêu của Việt Nam, một phong trào toàn quốc chống chiến tranh Việt Nam đã nổi lên.

Lời kêu gọi đòi công lý của Hồ Chí Minh đã trở thành tiếng nói đòi độc lập của Việt Nam đối với nhân dân toàn thế giới. Hồ Chí Minh vì mong ước chung của cả nhân loại nên được nhiều người trên thế giới đồng tình ủng hộ.

2. Những vấn đề đương đại

Liệu hoàn cảnh ở Việt Nam hiện đại có nhận được nhiều sự cảm thông và ủng hộ của người dân trên thế giới như ở Thành phố Hồ Chí Minh? Tôi tự hỏi phải chăng người Việt Nam đang nung nấu những vấn đề mà nhân loại đang phải đối mặt và đang hướng tới tương lai. Hiện nay mọi người trên thế giới đang lo lắng về những vấn đề gì?
Vấn đề hòa bình cũng là vấn đề lớn, nhưng tệ sùng bái tiền bạc tràn lan, xã hội suy thoái, thiếu tinh thần đoàn kết sẻ chia. Bất bình đẳng xã hội ngày càng gia tăng ở mọi quốc gia. Độc lập kinh tế đã trở thành một vấn đề lớn. Ngoài ra, các vấn đề đạo đức trong hoạt động kinh tế đã trở nên quan trọng.
Việt Nam đã đạt được độc lập chính trị, nhưng độc lập kinh tế là một thách thức trong tương lai. Làm thế nào để nền kinh tế địa phương có thể phát triển độc lập? Điều này được quyết định bởi năng lượng của những người trẻ nhạy cảm nhất với tương lai.

“Tuổi trẻ sẽ kiến ​​tạo tương lai”. Để tạo ra một tương lai mới, cần phải học các lĩnh vực học thuật khác nhau do loài người tạo ra. Việc học tập của những người trẻ có đầu óc linh hoạt tạo ra sự phát triển nhanh chóng của xã hội. Sự phát triển khả năng của những người trẻ tuổi là sớm và tạo ra sức mạnh để hành động. Để làm phong phú thêm những tư tưởng về chủ nghĩa xã hội và tiến bộ xã hội, cần phải học tập tích lũy kinh nghiệm học tập của con người, như Lênin đã từng nói trong tác phẩm Nhiệm vụ của đoàn thanh niên. Chúng ta không được bỏ qua một thực tế là tư duy của con người phát triển cùng với sự tiến bộ của thời đại.

3. Hồ Chí Minh khuyến khích thanh niên học tập

Đối với các bạn trẻ, điều quan trọng là phải học với tinh thần cầu tiến. Người Việt Nam có tính kiên trì, nghiêm khắc và tinh thần tiên phong, nhưng chỉ những điều đó thôi thì chưa đủ để vượt qua những khó khăn nghiêm trọng.
Thông qua học tập, chúng ta khám phá ra sức mạnh của việc lắng nghe đúng đắn những người không đồng ý với chúng ta, và sức mạnh kỳ diệu của những người dường như không có khả năng gì, để chúng ta biến họ trở nên hữu ích cho xã hội, đó là vai trò của người lãnh đạo. Vào thời điểm Việt Nam đứng trước ngã ba đường giữa sinh và diệt, Hồ Chí Minh kêu gọi toàn dân đoàn kết sức mạnh toàn dân. Có học mới huy động được trí tuệ dân tộc để giải phóng Tổ quốc.
Hồ Chí Minh cho rằng, việc kết hợp nghị lực giữa già và trẻ là vô cùng quan trọng. Người cao tuổi còn phát huy sức mạnh to lớn cho sự nghiệp giải phóng quê hương. Người già có kinh nghiệm sống tuyệt vời và có thể khuyến khích những người trẻ tuổi bằng kinh nghiệm của chính họ. Những người có vốn nên bắt đầu kinh doanh nhỏ, giúp đỡ những người gặp khó khăn và cố gắng giữ những người sơ tán kinh doanh.
Khắc phục tính ích kỷ, vô đạo đức và chủ nghĩa ham muốn là điều quan trọng đối với cuộc đấu tranh giải phóng. Trong di chúc, Hồ Chí Minh nói: “Sau khi tôi mất, không nên tổ chức đại tang, làm như vậy để tránh lãng phí thời gian và tiền của của nhân dân”. Cần học tập tư tưởng Hồ Chí Minh theo hướng hiện đại, không tuyệt đối hóa cá nhân. Chính vì lẽ đó, việc phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh trong học tập tích lũy của con người học là cần thiết. Nó không chỉ của riêng người Việt Nam, mà là tài sản chung của nhân loại.
  
4, Chính sách ngu dân của Pháp

Cổ nhân Việt Nam có câu: “Một hũ vàng không bằng nửa bụng kiến ​​thức”. Lịch sử dân tộc Việt Nam có tinh thần hiếu học rất cao. Mỗi làng đều có một trường tư thục.

Người Pháp đến và phá hủy nền văn hóa ham học này, và nền văn hóa chữ Hán biến mất. Cảnh dạy chữ Hán cho trẻ em như ngày xưa đã không còn nữa. Pháp sợ rằng chữ Hán sẽ mang những tư tưởng tiến bộ từ khắp nơi trên thế giới thông qua Trung Quốc và Nhật Bản.
Thực dân Pháp ngày xưa cấm thanh niên học tập văn hóa quê hương, làm cho họ tự hào về quê hương mình. Chỉ riêng việc người Việt Nam có ý định du học đã bị Pháp coi là phản quốc. Trước rủi ro tính mạng, một sinh viên trẻ Việt Nam quyết định đi du học để giải phóng đất nước của mình. Phong trào Tonzu đến Nhật Bản là một trong số đó. Tôi chưa bao giờ cố gắng đi du học để tôn thờ tiền của mình. Điều hỗ trợ sinh viên Việt Nam du học Nhật Bản là viện trợ cho công cuộc giải phóng khỏi ách thống trị thực dân ở châu Á.

 

 

ホーチミンから学ぶ青年の生き方

1,二〇世紀の偉大な人類解放の指導者

 二〇世紀の後半は、長く続いた地球上での植民地や奴隷制をなくしていく時代であった。ガンジーはインドを解放した指導者であり、キング牧師アメリカ国内の黒人の市民権を獲得し、カストロ中南米の解放の思想の基盤をつくった。

 ホーチミンは、ベトナムの独立をかちとった指導者である。ベトナムの独立の人類史的な意味は、どんなに小さな国でも、民族解放の正義は大きな力をもち、横暴な大国に対して、勝利することができるということを証明した。

 ベトナムの正義は、世界の多くの人々に大きな共感をもった。そして、国際的な支援の輪が広がっていくのである。とくに、アメリカでは、ベトナム反戦のうねりがおきた。ベトナムへの前進基地であった日本では、国民的なベトナム反戦運動が起きたのである。

 ホーチミンの正義のよびかけは、世界の人々にベトナムの独立の声になったのである。ここには、ホーチミンの人類共通の願いがあったから、世界の多くの人々が共感をもって支援したのである。

2,現代的な課題

 現代のベトナムの状況は、ホーチミンの時代ほど世界の人々に共感と支援をもたれているのであろうか。人類的な直面する課題にベトナムの人々が燃えて、未来にむかっているのでろうか。今、世界の人類は何に悩んでいるのであろうか。
 平和の問題も大きな課題であるが、拝金主義がはびこり、社会が退廃状況になり、絆をもって分かち合う連帯の精神が欠落ている。格差社会は、どこの国でも拡大している。経済の独立は、大きな課題になっている。また、経済活動における道徳問題は、重要になっている。
 ベトナムの政治的な独立は、達成しているが、経済的な自立は、これからの課題である。どうしたら、地方の経済は、自立して発展していけるのか。これは、未来をもっとも敏感に感じている若者エネルギーによって、決まる。

 未来をつくるのは、若者である。新しい未来をつくるためには、人類のつくりあげた様々な学問を学ぶことが必要である。柔軟な頭脳をもっている若者の学びは、急速な社会発展をつくりだす。若者の能力の発達は、早く、行動力を生み出す。社会主義の思想、社会進歩の思想を豊かにするために、レーニンがかって青年同盟の任務という著作でのべたように、人類的な学問の蓄積を学ぶことである。時代の進歩とともに、人々の考えも発展していくものであることを見落としてはならない。

3,ホーチミンが若者に学問を奨励したこと

 若者にとって、大切なことは、進歩にたいする熱望をもって、学ぶことでえある。我慢つよさ、厳密さ、時代を切り開こうとする精神などをベトナムの人々はもっているが、しかし、これだけでは、重大な困難の克服に、不十分である。
 学ぶことによって、自分の意見に一致しない人々に正しく耳をむける力、何の能力もないとみえる人々のすばらしい力を発見し、その人を社会のために役にたてることができるようにするのは、リーダーの役割である。ベトナムが滅亡するか生存するのかの岐路にたたされているときに、すべての国民の力を結集しなければならないとホーチミンは、国民によびかけた。学ぶことによって、祖国の解放のために、国民的な英知を結集することができるのである。
 老人と若者エネルギーを結合することは極めて大切であるとホーチミンはのべた。老人も祖国の解放のために大きな力を発揮するのである。老人は大きな人生経験をもち、自分の経験で若者を励ますことができる。資本をもっている人は、小企業を起こし、苦労している人々を助け、疎開している人々に職業を続けるように努力することが求められている。
 利己主義と不道徳、拝金主義の克服は解放闘争にとって大切なことである。ホーチミンは遺言で「わたしが世を去ったあと、盛大な葬儀を行ってはならない。そうすることによって、国民の時間と金の浪費をさけるべきである」と述べたのである。絶対的な個人崇拝ではなく、現代的にホーチミンの思想を学ぶことが大切である。そのために、ホーチミンの思想を人類的な学問の蓄積の学びのなかで発展させることが求められているのである。それは、ベトナム人ばかりではなく、人類の共通財産として。
  
4,フランスの愚民政策

 ベトナムには、古来から「金のいっぱいの壺は、知識の腹の半分ほどの価値もない」ということわざがある。ベトナム民族の歴史は高い学習熱をもっていた。どんな村にも私塾があった。

 フランス人がやってきて、この学習熱の文化を破壊し、漢字の文化もなくしてしまった。昔のように子どもに漢字を教える風景はなくなった。漢字は、中国と日本をとおして、世界の進歩的な思想をもちこむのではないかとフランスはおそれた。
 昔のフランスの植民地主義者は、青年が自分の祖国の文化を学び、祖国の誇りをもたせることを禁止した。ベトナム人が海外留学の考えをもつだけで、フランスの反逆とみなした。命の危険をおかして、ベトナムの青年は祖国の解放のために、留学をこころみたのである。日本へのトンズー運動もそのひとつである。決して、自己の拝金主義のために、留学をこころみたのではない。日本でもベトナム人の留学をささえたのは、アジアの植民地支配からの解放のための援助である。

ナムディンの歴史と文化の特徴・Nét Văn Hóa Lịch Sử Nam Định

Nét Văn Hóa Lịch Sử Nam Định

 

Đồng bằng sông Hồng là nơi văn hóa Việt Nam đa dạng, độc lập và tinh thần cộng đồng mạnh mẽ. Đồng bằng sông Hồng có ý nghĩa to lớn đối với lịch sử độc lập của Việt Nam khỏi Trung Quốc.

 Văn hóa từ địa hình và khí hậu vùng châu thổ sông Hồng Việt Nam

Phần phía bắc của Việt Nam, trung tâm là Hà Nội, được bao phủ bởi vùng đồng bằng sông Hồng. Đánh sông cho người Việt đã làm phong phú thêm sản lượng lương thực. Đó là lịch sử khẩn hoang và giành độc lập. Sông Hồng khổng lồ, dài 1.200 km, diện tích lưu vực 120.000 km2, ở lưu vực trung lưu Việt Nam không có đồng bằng, có đặc thù là tiếp xúc trực tiếp với núi và đồng bằng.
Vì lý do này, người Việt Nam đã có lịch sử phải chiến đấu với dòng sông Hồng dữ dội trong mùa mưa. Nông dân Việt Nam ở phía bắc đồng bằng sông Hồng phải xây dựng một mạng lưới đê chắn sóng lớn nhỏ rộng khắp để tạo cơ sở kinh tế. Trong lịch sử, độc lập khỏi Trung Quốc có nghĩa là cải thiện và ổn định sản xuất nông nghiệp. Ở đó, họ xây dựng các vòng tròn, bảo vệ các khu vực ngập lụt của sông Hồng bằng đê chắn sóng và xây dựng các trang viên gọi là tansho. Trang viên này có một đội quân riêng và trở thành một lực lượng kháng chiến mạnh mẽ chống lại sự xâm lược của Trung Quốc. Thậm chí ngày nay, một bức tượng đồng của Trần Hưng Đạo, nhà lãnh đạo đã đánh bại ba cuộc xâm lược của nhà Nguyên, vẫn còn đứng trong một công viên ở trung tâm thành phố Nam Định. Nó đã trở thành rường cột tinh thần đấu tranh giành độc lập oanh liệt của dân tộc Việt Nam.
Đồng bằng sông Hồng được bao bọc bởi những con kênh nhỏ đóng vai trò là phương tiện giao thông và tưới tiêu. Ngày nay, vùng biển Nam Định có ngành đóng tàu phát triển mạnh với những con tàu dưới 1.000 tấn. Ngành công nghiệp đóng tàu phát triển vì đây là một điểm chiến lược cho giao thông vận tải sử dụng đường sông.
Quân đội Trung Quốc đã bị đánh lui bởi một chiến thuật sử dụng sự khác biệt về mực nước hàng ngày và thời gian của dòng sông. Sông đóng thành sông, khi nước rút thuyền không thể ra khơi. Đó là một chiến thuật xem xét địa hình tốt.

Ý tưởng về một cộng đồng danh dự và gắn kết ở đồng bằng sông Hồng

Nhà tư tưởng truyền thống Việt Nam Nguyễn Chải (1380-1442) là nhà lãnh đạo, nhà tư tưởng đã đánh bại cuộc xâm lược của nhà Minh vào Trung Quốc thế kỷ 15, chủ trương nhân nghĩa và chính nghĩa. “Nhân thì thắng bạo”, và “tham thắng hung tàn”, ông đã áp dụng tâm đức Nho giáo vào Việt Nam để bảo vệ nền độc lập.

Tôi đối xử nhân đạo với những người lính triều đại nhà Minh bị bắt, đảm bảo lương thực cho họ và đường về nhà. Ông đã trao hơn 500 chiếc thuyền cho những người lính trở về bằng đường biển và hàng ngàn con ngựa cho những người lính trở về bằng đường bộ. Tôi đặt trái tim của mình như một con người vào người Việt Nam. Chúng tôi đã cho người dân Việt Nam nghỉ ngơi đầy đủ và thực hiện các biện pháp để xây dựng hòa bình với Trung Quốc trong tương lai. Những người lính trở về tích cực hợp tác.
Sông Hồng có một cộng đồng các vòng tròn mạnh mẽ. Tuy nhiên, cũng phải nhấn mạnh rằng, giao thông vận tải đã phát triển, thông thoáng với bên ngoài. Các cộng đồng vùng châu thổ sông Hồng đã tự kết thành vòng, xây hàng rào, trở thành một cộng đồng gia đình lớn, có ý thức quê hương ở cấp cộng đồng, cấp tỉnh và gắn với ý thức dân tộc, tộc người.

Ý thức địa phương mạnh mẽ của người Việt Bắc cũng đã được tạo ra trong cấu trúc lịch sử này. Đây là tâm thức của người Việt vốn có lịch sử phát triển chủ yếu ở phương Bắc. Văn hóa hạ tầng của miền Bắc về cơ bản bắt nguồn từ văn hóa cộng đồng châu Á với tầng lớp thượng lưu và các đơn vị sống tập trung ở châu thổ sông Hồng.
 

Một tư tưởng bao dung bao dung Thượng đế, Phật giáo và Thiên chúa giáo

 


Các đền đài, lăng tẩm của đồng bằng sông Hồng được xây dựng từ thời Lý, Trần vẫn là đối tượng tín ngưỡng mạnh mẽ của người dân Việt Nam, trong đó có nông dân. Nền văn hóa hỗn hợp của Thần đạo và Phật giáo cũng giống như Nhật Bản hiện đại trước đây. Người dân từ khắp nơi đến thăm Lăng Kim Siêu ở Nam Định và chùa Phú Đức gần đó trong dịp Tết Nguyên đán, Tết Nguyên đán và gặp cảnh tắc đường bất thường.
Vùng Nam Định của Việt Nam có nguồn gốc sâu xa từ sự pha trộn phức tạp giữa Thần đạo và Phật giáo, với các ngôi chùa Phật giáo, nhà thờ Công giáo, miếu thờ tổ tiên, lăng mộ và đình làng dành cho các vị thần hộ mệnh của làng. Ngoài ra, Công giáo và Tịnh độ tông, Thiền tông kết hợp với Nho giáo và Lão giáo cùng chung sống. Sự bảo vệ của ngôi làng được chia sẻ giá trị của việc nhận ra niềm tin của nhau.  Ngày 23 tháng chạp âm lịch (18/01/2009 tân lịch) là ngày thần bếp về trời, có lễ cấp cá chép để thần mang về. Anh ấy nói sẽ về trước Tết Nguyên Đán. Bằng cách đó, trong đời sống hàng ngày của người Việt Nam, thế giới truyện kể dân gian vẫn tồn tại như một nghi lễ của cuộc sống hàng ngày.

 

Xung đột nhân dân gây ra bởi rắc rối thuộc địa


Nhân tiện, trong quá trình dẫn đến thời hiện đại, một mối quan hệ thù địch đã được tạo ra giữa Phật giáo, Nho giáo, Đạo giáo và Công giáo trong bối cảnh thực dân Pháp và hệ thống triều đại nhà Nguyễn. Điều này cần được nhấn mạnh về mặt văn minh và hiện đại hóa thuộc địa. Các tín ngưỡng khác nhau có thể được sử dụng, thậm chí là tạm thời, trong các mối quan hệ thù địch. Nhưng đây không phải là lịch sử truyền thống dân tộc Việt Nam.
Các ngôi chùa truyền thống của vùng Nam Định, Cổ Lễ, Keo Hành Thiện và Keo Thaibine, được thành lập vào thế kỷ 11 với tên gọi là chùa Jinkoji để mang lại hòa bình cho triều đại Lee và hòa bình cho nông dân. Ba ngôi chùa Jinkoji có quan hệ họ hàng với nhau, cùng cầu nguyện, giải tỏa lo lắng về tinh thần, hoặc nhiều người đến nhà sư để giải quyết những rắc rối của mình. Năm 1262, dưới triều đại nhà Tần, Shinmyoji được xây dựng như một ngôi chùa để thiền theo phong cách Việt Nam. Các tháp cánh 14 tầng bao phủ khung cảnh nông thôn và ngôi đền được trang trí bằng các hình chạm khắc cá chép và rồng trên mái. Một nhà thờ Công giáo cùng tồn tại trong làng chùa này.
Trong thời nhà Lý và nhà Trần, Phật giáo, Đạo giáo và Nho giáo kết hợp dưới sự bảo hộ hào phóng của Phật giáo. Các trường Phật giáo có một truyền thống lâu đời. Việc truyền bá Thiên chúa giáo ở Việt Nam lần đầu tiên được truyền bá bởi các tu sĩ dòng Phanxicô vào năm 1538 tại tỉnh Nam Định, rất lâu trước khi thực dân Pháp. Sau năm 1614, các tu sĩ Dòng Tên đã truyền bá nó một cách nghiêm túc. Kitô giáo ở Việt Nam đã có một lịch sử tồn tại lâu dài ngay cả trước khi chế độ thực dân.
 

Lòng khoan dung của văn hóa Việt Nam

Họ khoan dung, cùng thừa nhận văn hóa Việt Nam và các giá trị tôn giáo khác nhau. Điều này đã được tạo ra như một truyền thống dân tộc. Do đó, nó không có lịch sử đàn áp đức tin cụ thể của Haibutsu Kishaku bởi các chính trị gia. Nội dung của các kỳ thi cung đình cũng khác với Trung Quốc và bán đảo Triều Tiên, không chỉ nội dung của Nho giáo mà cả nội dung của Phật giáo và Đạo giáo cũng được áp dụng như các kỳ thi. Đây là ba kỳ thi của kỳ thi tuyển công chức theo kiểu Việt Nam.
Vào thế kỷ 15, sau khi đánh bại nhà Minh ở Trung Quốc, tất cả những người có quyền lực, không chỉ quân nhân và thường dân, đều được nhận vào các kỳ thi của triều đình. Thử nghiệm là một thử nghiệm ba bước với khoảng thời gian ba năm. Trước tình hình đó, việc học đang lan rộng ở Việt Nam. Shio, văn nhân, văn thần, văn nhân trở thành đối tượng được mọi người kính trọng. Ở Nhật Bản, không có hệ thống thi cử, và các học giả với các tư tưởng Nho giáo đa dạng được sản sinh ra, nhưng ở Việt Nam, sự tôn trọng được sinh ra đối với những người học tập trong khi chấp nhận các tín ngưỡng đa dạng và các giá trị khác nhau.
Các trường tiểu học tồn tại dựa trên tính chất cộng đồng của khu vực này và cơ sở vật chất của trường đóng vai trò chính trong hoạt động của các tổ chức địa phương. Ngoài ra, ở Việt Nam, cấp độ phát triển hành chính là tỉnh (quận ở Nhật Bản), và ủy ban nhân dân của các đơn vị sinh hoạt và trường tiểu học (thị trấn và làng ở Nhật Bản). Khác với thị trấn và làng, các quan chức hành chính không được giao mỗi bộ phận.
Có một ngôi làng bên dưới ngôi đền, và Dain (ngôi đền) cũng là biểu tượng cho sự thống nhất của ngôi làng. Trong đơn vị làng này, có một nơi gặp gỡ gọi là Bunka Kaikan, và có các tổ chức khu vực như hiệp hội thanh niên, hiệp hội phụ nữ, hiệp hội nông dân và hiệp hội cựu chiến binh.
 

phong trào xây dựng nông thôn mới

Ở Việt Nam, phong trào xây dựng nông thôn mới bắt đầu trên toàn quốc từ năm 2010. Đó là phong trào phát triển vùng vì cuộc sống nông thôn sung túc nhằm khắc phục tình trạng phát triển mất cân đối giữa thành thị và nông thôn trong quá trình công nghiệp hóa. Việt Nam có kế hoạch trở thành nước công nghiệp vào năm 2020, nhưng đang tìm cách công nghiệp hóa mà không làm mất đi khu vực nông thôn, phát triển nông nghiệp và duy trì văn hóa nông thôn truyền thống. Trong số này, phong trào VAC, nhằm hiện đại hóa các làng nông nghiệp trong khi xem xét lối sống truyền thống, đang thu hút sự chú ý.

 

 

 

ナムディンの歴史と文化の特徴

  紅河デルタは、ベトナム人の文化の多様性、独立心、共同性のこころを強くもっているところである。ベトナムが歴史的に中国から独立していくうえで、紅河デルタは大きな意味をもっていた。

 

 ベトナム紅河デルタの地形と気候からの文化

 ハノイを中心とするベトナム北部は、紅河デルタ地域に覆われていた。ベトナム人にとっての河川との闘いは、食料生産を豊かにしてきた。それは、開墾と独立のための歴史であった。1200キロと流域面積12万平方キロメートルという巨大な紅河は、ベトナム中流域には平原をもたず、山地とデルタが直接に接している特殊性をもっている。
 このため、ベトナム人は、雨期に荒れ狂う紅河と闘わなければならない歴史であった。紅河デルタの北部のベトナム農民は、経済的基盤をつくるために、広範囲に網の目のように、大小の防波堤を築くことであった。歴史的に、中国からの独立のためには、農業生産を向上し、安定させることであった。そこでは、輪中をつくり、紅河の氾濫地域を防波堤で防ぎ、田庄とよばれる荘園をつくっていった。この荘園には私兵をもち、中国の侵略にたいしての強力な抵抗勢力となったのである。今でも、ナムディンの中心街の公園には、3度による元朝の侵略を打ち破った指導者の陳興道チャンフンダオ)の銅像がそびえている。それは、ベトナムの人々のあつい独立の精神的支柱になっている。
 この紅河デルタには小さな運河がはりめぐらせて交通手段と灌漑とを兼ねているのである。今では、ナムディンの海岸では1千トン未満の船舶の造船業が盛んにおこなわれている。河を利用した交通の要衝であったため、造船業が発達した。
 中国軍を追い払ったのも河を利用しての水位の日ごとの差と時間差を利用した戦法であった。河にくいをうちこみ、水がひいたときに船がでれなくなる。よく地形を考えた戦法である。

 

紅河デルタの仁義と絆をもつ共同体の思想

 

 ベトナムの伝統思想家グエンチャイ (1380年~1442年)は、仁義を唱えた15世紀中国の明朝の侵略を打ち破った指導者で思想家である。「仁義は横暴より強し」ということで、「大義をもって残虐に勝る」ということで、儒教のこころをベトナム的に応用して独立を守りました。

 捕虜になった明朝の兵士を人道的にあつかい、彼等の食料と帰りの道を確保しました。海を渡って帰る兵士に500余の船を与え、陸を通って帰る兵士には、数千の馬を与え、人道的なはからいをしました。 人間としてのこころをベトナム人にといた。ベトナムの民には、十分なる休息を与え、今後中国と平和を築くために施策をした。帰った兵士たちが、その協力を積極的にしたのである。
 紅河は、輪中による強固な共同体をもっていた。しかし、交通手段が発達して、外に開かれていたことも重視しなければならない。紅河デルタ地帯の共同体は、集落それ自身が、輪中化して、塀をつくりひとつの大きな家族共同体となっており、そのうえに、皇帝の指揮のもとに派遣されている郡単位規模の上位の地方共同体、省レベルのふるさと意識が存在し、国家・民族意識と繋がっていくのである。

 北部ベトナム人の強い郷土意識もこのような歴史的な構造のなかでつくられてきたのである。それは、歴史的に北部を中心として発展してきたベトナム人の意識である。北部の基層的文化は紅河デルタを中心とした上位と生活単位の層をもつアジア的な共同体文化が基本的に根強くあるのである。
 

 神・仏・キリスト教も包む寛容思想

 

 紅河デルタの李・陳朝時代に創建された寺院や皇帝廟などは、今も農民をはじめベトナム人にとってあつい信仰の対象になっている。神仏混合文化は、日本の近代以前と同じである。ナムディンにある陳朝廟やとなりにある普明寺には、旧正月・テトのときは、全国から人々が訪れ、、めったにない自動車の渋滞にあうのである。
 ベトナムのナムディン地方は、仏教寺院やカソリックの教会、また、祖先崇拝の祠堂や村の守護神の廟・亭など複合的な神仏混合の信仰生活が深く根付いている。また、儒教道教と結合した浄土教禅宗仏教徒カソリックが共に暮らしていたのである。村落の守護は、それぞれの信仰を認め合う価値が共有していたのである。 旧暦の12月23日(2009年の1月18日の新暦)は、料理の神様が天に昇る日で、コイをもっていかせるために授けるという儀式がある。テトの正月まえに帰ってくるという。このように、ベトナム人の日常生活のなかでに、昔話にある世界が日常生活の儀式として残っているのである。

 

植民地の禍根による民衆の対立


 ところで、近代に至る過程で、フランス植民地化とグエン王朝体制のなかで、仏教・儒教道教カソリックとの敵対関係がつくられた。このことは植民地文明と近代化ということで重視すべきである。異なる信仰が一時的にせよ、敵対的関係に利用させることがあるからである。しかし、これは、ベトナムの民族的伝統の歴史ではない。
 ナムディン地方の伝統的な寺院であるCO LE、KEO HANH THIEN、KEO THAIBINEは、神光寺として、李王朝の安泰と百姓人民太平ということで、11世紀に設立されたものである。3つの神光寺は、相互に関係し、祈願とこころの悩み、易をしてくれるところで、王の病もこの寺に祈願によって、回復しているということで、今でも祈願や祈祷をしたり、僧侶に悩みを解決するために多くの人々が訪れる。1262年の陳朝時代にベトナム式座禅の寺として晋明寺が建設される。14の段の棟が農村の風景にそびえたち、寺はコイと竜の彫刻物が屋根のうえに飾られている。この寺院の村落にカソリックの教会が併存しているのである。
 李朝・陳朝時代は、仏教の手厚い保護のもとに、仏教、道教儒教が結合していった。仏教の学校は、長い伝統を持ってきたのである。ベトナムキリスト教の普及は、フランスの植民地以前のずっと前に、ナムディン地方に1538年にフランシスコ派によってはじめて布教された。そして、1614年以降は、イエズ会によって本格的に普及していく。ベトナムキリスト教は、植民地支配以前にも存在していたという長い歴史をもっていたのである。
 

ベトナム文化の寛容性

 ベトナムの文化、異なる信仰的価値を互いに認め合ってきた寛容性をもっている。これは、民族の伝統性としてつくられてきたのである。従って、為政者による廃仏毀釈という特定の信仰を弾圧する歴史をもたなかったのである。科挙試験の内容も中国や朝鮮半島と異なっており、儒教の内容ばかりではなく、仏教や道教の内容も試験として課していたのである。これが、ベトナム的な科挙試験の3教試である。
 すでに、15世紀の中国の明を撃退したあとの科挙試験は、軍民に限らず、力のある者すべてが、認められたのである。その試験は3年ごとの3段階の試験であった。このようななかでベトナムでは、学問をすることが広くいきわたっていくのである。士夫、文士、文神、文人ということが人々に尊敬される対象になっていく。日本では科挙制度がなく多様な儒教の考えをもった学者を輩出していくが、ベトナムでは多様な信仰心と異なる価値観を容認しながら学問をするものに対しての尊敬が生まれたのである。
 小学校は、この地域のもつ共同性を基盤にして、存在しており、地域組織の活動に学校の施設の果たす役割が大きくある。また、ベトナムでは、行政的に整備されているのは、県(日本の郡)段階であり、日常的な生活の単位や小学校のまとまりの社(日本の町村)の人民委員会は、日本の町村行政のように、それぞれの部門ごとの担当行政職員が配置されているわけではない。
 社の下に集落があり、デイン(神社)は、集落のまとまりの象徴でもあった。この集落単位に、文化会館という集会所があり、そこに、青年会、婦人会、農民会、在郷軍人会などの地縁組織があるのである。
 

新農村建設運動

 ベトナムでは、2010年から全国的に新農村建設運動がはじまった。工業化に伴う都市と農村の不均衡な発展を是正するために、豊かな農村生活のための地域づくり運動である。ベトナムは、2020年までには、工業国にしていく計画であるが、農村を失わずに、また、農業の発展、伝統的な農村文化を維持しての工業化を模索しているのである。このなかで、注目されるのが、伝統的な生活を見直しながら、農村の近代化を行っていくというVAC運動である。

日本の近代教育の成功と失敗の教訓から 

Bài học từ những thành công và thất bại của nền giáo dục hiện đại ở Nhật Bản
  
Hiện đại hóa của Nhật Bản nhấn mạnh giáo dục

  Giáo dục tạo ra tương lai. Kế hoạch là nối tiếp các bài học kinh nghiệm từ những thành công và thất bại trong khi liên kết lịch sử 150 năm giáo dục ở Nhật Bản hiện đại với sự phát triển kinh tế.
"Giáo dục làm phong phú thêm cuộc sống của mọi người." Nhật Bản đã trở thành một quốc gia lớn về kinh tế thông qua sức mạnh của giáo dục. Ở một đất nước như Nhật Bản, nơi khan hiếm tài nguyên, phát triển nguồn nhân lực là cơ sở để làm giàu cho đất nước.
Một ví dụ điển hình về sản xuất của Nhật Bản có thể được nhìn thấy trong việc sản xuất tơ thô chất lượng cao trước chiến tranh. Đó là một sự hiện đại hóa sử dụng các kỹ thuật thủ công truyền thống của Nhật Bản. Nhật Bản đã hiện đại hóa trong nhiều lĩnh vực khác nhau bằng cách tận dụng tốt các kỹ thuật thủ công truyền thống.
Nghề thủ công Nhật Bản đã dẫn đến sản xuất chất lượng cao. Sau chiến tranh, chúng tôi đã phát triển ngành sản xuất chất lượng cao có thể dẫn đầu thế giới, chẳng hạn như thiết bị điện, máy công cụ chính xác, rô-bốt và sản xuất ô tô.
Kho báu của Nhật Bản là có rất nhiều người có khả năng sáng tạo và phong phú trong việc chế tạo mọi thứ. Vì mọi công dân đều có thể học mọi lúc mọi nơi, tạo điều kiện để tạo ra nhiều kho báu.
 
Chân dung trên tờ 10.000 yên, Yukichi Fukuzawa

Trên tờ 10.000 ở Nhật Bản có chân dung của Yukichi Fukuzawa, người hoạt động trong lĩnh vực giáo dục cách đây khoảng 130 năm. Ông là người viết ra những khuyến nghị học tập để làm giàu cho đất nước Nhật Bản. Học để tự lập cho đời mình, cho nước, cho mọi công dân được tự do, ấm no là phát huy ý chí và khả năng của con người để tự lập, từ đó làm giàu cho Tổ quốc, Người đã nhấn mạnh là học để tự lập. sức mạnh để trở nên độc lập.

Ông thành lập Đại học Keio tư nhân và cố gắng hỗ trợ thúc đẩy học tập với sức mạnh của khu vực tư nhân. Các trường đại học ở Nhật Bản từng được chia thành hai loại: các trường đại học quốc gia/chính phủ đào tạo các quan chức và nhà giáo dục, và các trường đại học tư nhân đào tạo các nhà công nghiệp và các nhà lãnh đạo khu vực.
 
 Trường tiểu học là một trung tâm cộng đồng

Một đặc điểm của Nhật Bản là các trường học và cơ sở giáo dục dành cho người lớn đã được tạo ra một cách có ý thức ở những nơi mà mọi người sống trong cộng đồng. Các trường tiểu học không chỉ đóng vai trò là nơi học tập của trẻ em mà còn là trung tâm cộng đồng.
Trước chiến tranh, thanh niên lao động địa phương học tại các trường tiểu học. Chúng được thể chế hóa thành các trường bổ túc kinh doanh. Đã có chế độ dành cho những thanh niên không thể học lên đại học hoặc trung học chuyên nghiệp để học tập tại cộng đồng. Ngoài ra, giáo dục phổ thông và giáo dục nghề nghiệp đã được tích cực phát triển trong các công ty. Theo cách này, Nhật Bản được đặc trưng bởi thực tế là giáo dục thanh thiếu niên phổ biến đã được phát triển tại nơi làm việc.
Trước chiến tranh, mọi trường tiểu học đều có một bức tượng Sontoku Ninomiya cõng củi trên lưng đọc sách. Nó tượng trưng cho quan điểm của người Nhật về công việc và học tập. Trường tiểu học trước chiến tranh là nơi học tập của thanh niên và người lớn, đồng thời cũng là đơn vị kết nghĩa miền, nơi kết nghĩa. Sau chiến tranh, một giai đoạn học tập được gọi là trung tâm cộng đồng đã ra đời trong vùng và nó được tách ra khỏi trường học về mặt chức năng. Tuy nhiên, giữa sự biến mất của sự gắn kết khu vực của mọi người, chẳng hạn như ở các thành phố lớn hiện đại, các cộng đồng trường tiểu học một lần nữa thu hút sự chú ý.
 
Thành công trong cuộc sống và giáo dục thực tế

Ở Nhật Bản, ngay cả trước chiến tranh, đã có ý tưởng đạt được trình độ học vấn cao và vào một trường đại học nổi tiếng để thành công trong cuộc sống. Trong đó, các đại học quốc gia và đại học công lập đã hoàn thành chức năng của mình. Nhà nước Nhật Bản trước chiến tranh dự định tạo ra các quan chức có năng lực trong số tất cả các công dân.
Trước chiến tranh, không phải tất cả công dân đều có thể tham gia cuộc thi thăng tiến nghề nghiệp do điều kiện kinh tế, ngoại trừ một số người có thể giành được học bổng.

Tuy nhiên, sau chiến tranh, vào những năm 1970, khi cuộc sống của người dân trở nên sung túc hơn, giáo dục phổ thông trở nên gần như bắt buộc. Do cạnh tranh đầu vào, việc hình thành nhân cách, năng lực sống và giáo dục thực tế bị bỏ quên, nền giáo dục coi trọng điểm số các môn học tràn lan.
 
 Mâu thuẫn trong giáo dục ở Nhật Bản hiện đại

Trong khi Nhật Bản đã trở nên thịnh vượng về kinh tế trong những năm gần đây, nó có nhiều mâu thuẫn như khó khăn trong các mối quan hệ giữa con người với nhau, đạo đức suy đồi, suy thoái văn hóa, tự tử và rối loạn thần kinh. Trong trường học, các vấn đề như từ chối học, bắt nạt và bạo lực học đường đang xảy ra. Tác hại của chủ nghĩa cạnh tranh ngày càng lộ rõ.
Cạnh tranh kích thích con người và tạo ra động lực mới, nhưng nó cũng triệt tiêu các mối quan hệ giữa con người với nhau dựa trên sự tôn trọng lẫn nhau. Cuộc thi tuyển sinh tạo ra một vấn đề xã hội lớn. Ở Nhật Bản, có một từ gọi là cạnh tranh thân thiện. Đối thủ thân thiện cạnh tranh với nhau và cố gắng cùng nhau phát triển. Kẻ yếu và kẻ mạnh cùng tồn tại và kích thích lẫn nhau. Ở đây có ý kiến ​​tôn trọng ưu điểm của nhau và cùng nhau phát triển.
Trong những năm gần đây, nền kinh tế Nhật Bản đã trì trệ và sức mạnh sản xuất của Nhật Bản đã suy yếu. Ngay cả khi có khó khăn, sẽ ít có sự kiên trì hướng tới tương lai và ý tưởng làm cho mọi người hạnh phúc cùng nhau. Chủ nghĩa cạnh tranh của luật pháp, tập trung vào lợi ích của chính mình, đang tràn lan. Đây là nơi Nhật Bản có một vấn đề nghiêm trọng.
 
Nhật Bản học được gì từ Việt Nam

Ở Việt Nam, vẫn còn một tinh thần hợp tác mạnh mẽ mà người Nhật đã từng có trước đây. Người có tinh thần độc lập, tự cường mạnh mẽ. Tôi nghĩ rằng người Nhật ngày nay có thể học hỏi được nhiều điều từ Việt Nam. Thông qua mối quan hệ với Việt Nam, Nhật Bản cũng có thể có sự công nhận mạnh mẽ về mặt văn hóa là một thành viên của châu Á. Thông qua mối quan hệ của chúng tôi với châu Á, chúng tôi có thể truyền tải sự huy hoàng của văn hóa Nhật Bản đến người dân trên thế giới và các nước đang phát triển.
“Việt Nam là quốc gia đóng vai trò cầu nối giữa họ”. Ba mươi năm trước, thanh niên Nhật Bản đã phát động phong trào phản chiến khắp cả nước, kêu gọi hòa bình cho Việt Nam. Ông cũng từng ngồi trước một căn cứ của Mỹ để tìm kiếm hòa bình và kêu gọi những người lính Mỹ vì hòa bình. Trong môi trường này, những người trẻ tuổi đã trưởng thành và trưởng thành, những người sẽ tạo ra một nước Nhật Bản mới, và đã tạo ra sức mạnh kinh tế của Nhật Bản hiện đại.
Nhiều người Nhật Bản đã học hỏi và trưởng thành từ tinh thần độc lập của Việt Nam. Bất chấp mọi khó khăn, mọi người đều đóng góp sức mạnh của mình và đóng vai trò tích cực cho tương lai của Nhật Bản tại nơi làm việc, trong khu vực và trên thế giới. Giờ đây, đài truyền hình Nhật Bản có tên NHK đang phát sóng chương trình mang tên Dự án X, cho thấy những thành tựu trong quá khứ đã tạo nên công việc sáng tạo ở Nhật Bản tại nơi làm việc và trong cộng đồng. Nhiều công nghệ và sản phẩm xuất sắc của Nhật Bản không phải do một thiên tài nào tạo ra. Mọi người đều thể hiện những đặc điểm độc đáo của riêng mình và chúng tôi đã nhận ra điều này bằng cách đánh giá cao vai trò của các cá nhân, nơi làm việc cá nhân và cộng đồng. Điều này là do mỗi người đều có đạo đức trong xã hội và có thể chứng minh mục đích trong cuộc sống.

 

Những thách thức của Nhật Bản trong thế kỷ 21

Nhật Bản đang ở trong thời đại phải tiến hành những cải cách lớn, nhưng cần phải xây dựng một lý tưởng mới cho nhân loại từ kỷ nguyên thế kỷ 20. Trong thế kỷ 21, dựa trên tinh thần độc lập, tự cường của mỗi dân tộc, mỗi dân tộc sẽ cùng chung sống, con người sẽ chung sống hài hòa với thiên nhiên, thế giới cùng thịnh vượng. Tôi tin rằng đã đến lúc tạo lập các mối quan hệ quốc tế để văn hóa của mỗi dân tộc cùng phát triển. Bằng cách đó, chúng ta có thể loại bỏ những di sản tiêu cực của thế kỷ 20, chẳng hạn như nghèo đói, hủy hoại môi trường và chiến tranh.

Một ngôi trường chùa Nhật Bản 150 năm trước

Trước thời Minh Trị Duy Tân, nhiều người đã theo học tại Terakoya. Tỷ lệ biết chữ quốc gia ở mức cao trên 50% đối với nam giới. Năm 1858, dưới sức ép của các nước phương Tây, Nhật Bản không thể tự mình đánh thuế thương mại. Nó cũng đã ký một hiệp ước nhục nhã không cho phép xét xử tội ác của người nước ngoài. Nhật Bản trở thành một cuộc khủng hoảng thuộc địa.
Giải pháp cho cuộc khủng hoảng này là tạo ra một xã hội hiện đại, và người dân từ các vùng nông thôn như Kagoshima và Yamaguchi đã đi đầu trong việc lật đổ chính quyền trung ương phong kiến ​​của Mạc phủ.
Trong thời đại này, chính quyền địa phương là chính quyền độc lập. Mỗi trung tâm chính quyền địa phương thành lập một thành phố, trong đó có một trường học dành cho các samurai theo học. Ở các vùng nông thôn, có những ngôi trường chùa. Trước khi Việt Nam bị Pháp đô hộ, đã có một trung tâm học thuật tên là Gakudo, nhưng ở Nhật Bản nó rất phát triển. Học tập ở đây thực sự hữu ích. Nó khác với những gì tôi học được ở trường võ sĩ đạo. Không có thứ gọi là hệ thống kiểm tra hoàng gia ở Nhật Bản.
 
 Đặc điểm của Nho giáo Nhật Bản

Nho giáo ở Nhật Bản không chỉ phát triển cho tầng lớp võ sĩ đạo mà còn cho cả nông dân và thương nhân nên nó phát triển cho từng tầng lớp. Những nhà tư tưởng nổi tiếng như Shoeki Ando và Sontoku Ninomiya xuất thân là học giả cho nông dân, và Baigan Ishida là học giả cho thương gia. Ở đó, họ đòi hỏi cao về giá trị con người, lao động và đạo đức xã hội.
Masamasu Ando là một người có tư tưởng bình đẳng và môi trường tập trung vào giá trị của lao động nông dân. Sontoku Ninomiya đã cố gắng làm phong phú cuộc sống của những người nông dân thông qua tinh thần sẵn sàng làm việc, tính tiết kiệm và sử dụng hiệu quả các nguồn lực địa phương. Ngay cả trong thời kỳ phong kiến ​​của Nhật Bản, việc học không chỉ phát triển trong giới samurai. Học thuật được phát triển với mục đích làm phong phú thêm cuộc sống của nông dân, thương nhân, thợ thủ công và những người khác và tăng sản lượng. Trong thời kỳ Edo ở Nhật Bản, việc học tập và văn hóa của người dân phát triển mạnh mẽ. Chúng bao gồm việc sản xuất sắt có độ tinh khiết cực cao (công nghệ luyện sắt tatara), công nghệ nông nghiệp tuần hoàn tự nhiên, hệ thống tái chế đô thị và lợi ích chung của thương mại và thương gia.

"Đạo đức thương nhân của Baiwan Ishida"

Baigan Ishida là người đã rao giảng về đạo đức của thương nhân. Để trả lại số tiền bạn kiếm được cho xã hội và trở thành một thương gia, bạn cần có đạo đức xã hội coi trọng tình thương, lòng nhân ái và lòng hiếu thảo, cũng như tinh thần công bằng cần kiệm, cần cù và trung thực hàng ngày. đó là nó đã được. Lợi nhuận của thương gia giống như tiền lương được cấp công khai. Để làm rõ con đường thương gia của chính mình, ông đã nhiệt tình thực hiện các hoạt động giáo dục phổ biến cho các thương nhân thành thị.
 
 Thực hành tái thiết nông thôn của Ninomiya Sontoku

Nhờ sự khéo léo, cần cù và tiết kiệm, Sontoku Ninomiya đã có thể gây dựng lại kinh tế gia đình và tài chính của thị tộc vốn đã lâm vào hoàn cảnh khó khăn. Ông cũng là người làm giàu cho kinh tế địa phương. Cho dù địa vị xã hội hay địa vị xã hội của bạn cao đến đâu, bạn không thể sống một cuộc sống giàu có nếu không có thu nhập.
Do đó, để xây dựng lại tài chính của gia đình và dòng tộc, tôi đã bỏ qua địa vị xã hội và địa vị xã hội của mình và bắt đầu suy nghĩ về cuộc sống hàng ngày của mình theo tình hình thu nhập thực tế của mình. Đó là lý do tại sao tôi đã nỗ lực có ý thức để tiết kiệm.
Anh ấy đã áp dụng phương pháp cố gắng kiếm thu nhập mới bằng cách phát minh ra cả những mảnh đất gồ ghề. Ngay cả ở những vùng hay bị lũ lụt, họ đã nghiên cứu kỹ về thiên nhiên, thông qua sự cần cù và tiết kiệm của người nông dân, họ đã phát triển công nghệ kiểm soát lũ lụt và làm cho ngôi làng trở nên thịnh vượng.
Nghiên cứu của ông là nghiên cứu thực tế trong thực tế. Sontoku Ninomiya là một nhà tư tưởng thực tế về tái thiết nông thôn trước thời Minh Trị Duy Tân. Ý tưởng về Sontoku có tác động lớn đến các làng nông nghiệp Nhật Bản như một cách thưởng đức bằng cách đặt giới hạn chi tiêu, làm việc siêng năng, tiết kiệm tiền và sử dụng tiền dư để trả nợ và tiết kiệm tiền.

Sự hình thành trường học sau Minh Trị Duy Tân


Hệ thống trường học hiện đại của Nhật Bản ban đầu được mô phỏng theo hệ thống của Pháp và các nước khác, nhưng nó đã thất bại. Khi ngôi trường mới được xây dựng, đã có một cuộc nổi dậy của nông dân để phá hủy ngôi trường. Đã có phản ứng dữ dội ở nhiều nơi vì nó không phù hợp với tình hình hiện tại ở Nhật Bản. Vì vậy, một trường tiểu học đã được xây dựng dựa trên cộng đồng làng kiểu Nhật. Ở làng, trẻ em được lo cho đi học.
Là một ngôi trường bắt nguồn từ cộng đồng, cư dân bắt đầu nghĩ về trường tiểu học như một trung tâm văn hóa cộng đồng. Các sự kiện của trường như gặp gỡ thể thao đã trở thành các sự kiện cộng đồng và người dân địa phương đã hợp tác với tư cách là tình nguyện viên trong các hoạt động giáo dục của trường và cải thiện cơ sở vật chất. Chính phủ đã sử dụng chi phí giáo dục để tài trợ cho việc xây dựng trường học và tài liệu giảng dạy thông qua các tài sản thuộc sở hữu của cộng đồng và các khoản đóng góp.
Giáo dục tiểu học Nhật Bản coi trọng việc cung cấp cho trẻ những kiến ​​thức cơ bản như đọc và viết, bàn tính, khoa học, địa lý và lịch sử, cũng như hướng dẫn lối sống và giáo dục đạo đức. Giáo dục nhà trường hướng đến sự hoàn thiện nhân cách. Trước chiến tranh, Bản Tuyên ngôn Giáo dục của Hoàng gia là cơ sở giáo dục cho sự hoàn thiện nhân cách.
 
 Tinh thần truyền thống Nhật Bản và giáo dục công nghệ phương Tây

Chiếu chỉ Giáo dục của Hoàng gia tôn trọng tinh thần hiếu thảo và lòng trắc ẩn đối với cha mẹ, vợ chồng, anh chị em và bạn bè, dựa trên tinh thần Nho giáo của tinh thần truyền thống Nhật Bản. Ông đề cao tinh thần trung nghĩa, yêu nước bằng việc không bao giờ sao nhãng việc học, tận tụy với nghề, trau dồi kiến ​​thức, cống hiến cho lợi ích chung. Giáo dục lòng trung thành và lòng yêu nước sau đó đã được định vị tích cực trong hệ thống quân sự của Nhật Bản. Đây là sự phủ định của giáo dục trước chiến tranh với giáo dục dân chủ sau chiến tranh.
Eiichi Shibusawa, người sáng lập ngân hàng đầu tiên của Nhật Bản và đóng vai trò hàng đầu trong phát triển kinh tế, nhấn mạnh đạo đức xã hội trong nền kinh tế. Ông đánh giá cao những ý tưởng của Luận ngữ trong các hoạt động kinh tế của mình. Từ quan điểm của lợi ích công cộng, ông là một người theo đuổi sâu sắc đạo đức của các nhà quản lý. Trong giáo dục học đường hiện đại của Nhật Bản, ông cũng tập trung vào giáo dục thương mại, giáo dục phúc lợi và giáo dục nữ sinh.
Tại Nhật Bản, các trường dạy nghề tư nhân được thành lập tích cực bởi thường dân. Năm 1918, chính sách đại học quốc gia đã dẫn đến việc nhiều trường dạy nghề tư thục trở thành đại học một cách hợp pháp. Các trường đại học tư thục đã đóng một vai trò quan trọng trong sự lan rộng của các trường đại học Nhật Bản. Mỗi trường đại học có một tinh thần độc đáo do ảnh hưởng của các trường tư thục. Ngoài ra còn có các trường dạy nghề độc đáo, chẳng hạn như trường nông nghiệp do chính phủ điều hành ở Sapporo. Các trường đại học trước năm 1918 là các trường đại học quốc gia như Đại học Tokyo và Đại học Kyoto là Đại học Hoàng gia. Việc này nhằm đào tạo nguồn nhân lực cho quốc gia. Tôi không nghĩ cái tên "Đế chế" là một cái tên hay bởi vì nó có hình ảnh của một trường đại học chuyên xâm lược và thống trị châu Á.
 
 Thành lập giáo dục phổ cập và đường đôi

Vào những năm 1890, giáo dục nghề nghiệp đã được thể chế hóa trong bối cảnh kinh tế phát triển và nhu cầu về giáo dục trung học tăng lên, tạo ra ba hệ thống giáo dục trung học. Năm 1899, ``Sắc lệnh về trường trung học cơ sở'', ``Sắc lệnh về trường trung học dành cho nữ sinh'' và ``Sắc lệnh về trường kinh doanh'' đã thể chế hóa việc theo dõi kép các cơ sở giáo dục cấp hai như trường trung học cơ sở, trường nữ sinh trung học phổ thông , và các trường dạy nghề.
Hơn nữa, các trường tiểu học địa phương đã được sáp nhập trong cái gọi là thời kỳ quản lý nông nghiệp saber, như một phần của phong trào cải tiến địa phương, đó là sự phát triển năng suất của chủ đất. Ở đó, dự án thống nhất các khu rừng và cánh đồng của Làng Oaza, nơi đã trở thành cơ sở tài chính của khu học chánh, đã được phát triển tích cực. Trong những trường hợp này, một hệ thống song hành sẽ được thiết lập thông qua việc hợp lý hóa và phân công lao động tại các trường học.
Bộ Giáo dục, Văn hóa, Thể thao, Khoa học và Công nghệ nhận thấy rằng do nhu cầu giáo dục trung học ngày càng tăng và sự phát triển của các trường dạy nghề, các khóa học thực hành được đưa vào các trường trung học cơ sở bình thường là không cần thiết. Và không thể duy trì hệ thống thành lập một trường trung học cơ sở ở mỗi tỉnh. Kết quả là các trường trung học cơ sở đào tạo tinh hoa chỉ có giáo dục thường xuyên sẽ ra đời.
Nói cách khác, nội dung giáo dục hướng nghiệp ở trường trung học cơ sở đã biến mất. Trường trung học cơ sở trước đây có hai mục đích. Tuy nhiên, nội dung giáo dục có mối quan hệ với một nghề nghiệp đó đã bị mất. Các trường trung học được định vị là cơ sở giáo dục cho các khóa học để giáo dục đại học. Nó đã làm mất đi tính chất giáo dục công lập mà trường cấp 2 ngày xưa đã có.
Năm 1902, tỷ lệ nhập học tiểu học đạt 90% và năm 1907, hệ thống giáo dục bắt buộc sáu năm được thành lập. Họ được giáo dục giống nhau trong sáu năm ở trường tiểu học, nhưng sau đó, họ được chia thành một khóa giáo dục kinh doanh và một nền giáo dục ưu tú. Trong khóa học ưu tú, sau khi tốt nghiệp tiểu học, anh vào trường trung học cơ sở năm năm.
 
Giáo dục phổ thông nhấn mạnh vào các trường kinh doanh và dạy nghề

Quá trình giáo dục cho những người bình thường bao gồm hai năm giáo dục chính quy như một trường bổ túc vào ban đêm bằng cách sử dụng trường tiểu học và trường tiểu học cao hơn. Hơn nữa, trường bổ túc cung cấp giáo dục chuyên ngành như nông nghiệp vào ban đêm. Các trường học được tạo ra trong các công ty. Ở vùng nông thôn Nhật Bản vào thời điểm đó, một hệ thống địa chủ bán phong kiến ​​​​được mở rộng, bao gồm cả những địa chủ khổng lồ ký sinh. Sự bần cùng hóa của nông dân tá điền trở nên trầm trọng hơn khi nền kinh tế hàng hóa tràn ngập các làng nông nghiệp. Những người chia sẻ nghèo khó sẽ bị sa thải vì những người lao động lương thấp, chủ yếu là phụ nữ, chẳng hạn như công nhân dệt may. Ở nông thôn trước chiến tranh có mối quan hệ chặt chẽ giữa địa chủ và tá điền, nhưng đồng thời cũng không được bỏ qua một thực tế là ở nông thôn cũng có phong trào sản xuất công nghiệp của những người lao động tự do độc lập.
Nhân tiện, giáo dục cho công nhân nữ được cung cấp từ các làng nông trại cũng trở thành một vấn đề lớn. Trong các nhà máy của ngành dệt may truyền thống, việc thúc đẩy sản xuất tại nhà máy đã dẫn đến thị trường các sản phẩm thô và sản xuất thừa. Duy trì chất lượng như một lĩnh vực sản xuất cũng sẽ trở thành một vấn đề lớn. Chất lượng của lực lượng lao động trở thành một vấn đề lớn. Lực lượng lao động từ nông thôn buộc phải sống trong các khu nhà tập thể vì họ là lao động nhập cư. Cần phải tiếp thu kiến ​​thức, cải thiện mức sống và tiêu chuẩn làm việc, đồng thời tăng động lực sản xuất bằng cách cải thiện trật tự và công nghệ tại nơi làm việc.
Năm 1899, Trường Dự bị Công nghiệp Mitsubishi được thành lập gần nhà máy tại Nhà máy đóng tàu Mitsubishi ở Nagasaki. Đó là phát triển tri thức cho các ứng dụng công nghiệp và đào tạo những công nhân kỹ thuật lành nghề trong tương lai. Học sinh từ 10 tuổi trở lên tốt nghiệp tiểu học bình thường hoặc có năng lực học tập đều được nhận sau khi làm bài kiểm tra. Thời gian học quy định là 5 năm, không thu học phí.
Có thể thấy tại Nhà máy Omiya của Đường sắt Nippon, chính các công nhân đã yêu cầu thành lập trường đào tạo trẻ em. Nhà máy Omiya không có hệ thống đào tạo công nhân và đã tuyển dụng công nhân lành nghề từ dân chúng. Vào tháng 4 năm 1900, những người tình nguyện của công nhân yêu cầu thành lập một cơ sở đào tạo chính thức cho công nhân. Việc đào tạo công nhân lành nghề được thể chế hóa tại Nhà máy Omiya vào tháng 10 năm 1902, bắt đầu với thời gian đào tạo học nghề ba năm.
Năm 1910, một trung tâm đào tạo học việc được thành lập tại Nhà máy Sửa chữa Điện mỏ Kuhara, tiền thân của Hitachi. Ông bắt đầu đào tạo công nhân lành nghề một cách có hệ thống thông qua các bài giảng. Năm 1910, Yawata Steel Works thành lập trường đào tạo công nhân trẻ. Họ tuyển dụng học sinh tốt nghiệp trung học và đào tạo họ thành thợ thủ công. Trong các chương trình giáo dục tại nhà máy này, họ không chỉ được học nghề mà còn được học kiến ​​thức khoa học và văn hóa cơ bản. Sự phát triển của các trường nổi tiếng ở Nhật Bản được đặc trưng bởi việc được thực hiện tích cực trong các cộng đồng và công ty. Giáo dục đại trà được dạy gắn với thực tiễn đời sống và sản xuất.

 

Cao đẳng nghề và phát triển vùng

Các trường nông nghiệp, trường công nghiệp ra đời như trường trung cấp nghề. Những ngôi trường đó đã trở thành những ngôi trường đào tạo các nhà lãnh đạo cộng đồng cho các đơn vị sống hàng ngày. Các trường trung cấp nghề đã đóng vai trò to lớn trong phát triển công nghiệp của vùng.
Ở nông thôn, các trường dạy nghề tiên tiến như nông nghiệp, công nghiệp, thương mại và y học đã phát triển. Tôi đã không học đại học trước chiến tranh. Sau năm 1945, sau chiến tranh, các trường dạy nghề tiên tiến này được hợp nhất theo khái niệm một trường đại học tổng hợp trong một tỉnh. Trên thực tế, không phải tất cả các tỉnh đều triển khai các trường đại học toàn diện.
Nền giáo dục không phải để lấy địa vị xã hội như nền giáo dục ưu tú, mà là để tạo ra cái hay, cái mới, làm phong phú cuộc sống, phát triển vùng miền, quan hệ con người và đạo đức xã hội. Động lực và sự sáng tạo của công nhân, nông dân và các nhà quản lý Nhật Bản đã bị ảnh hưởng rất nhiều bởi giáo dục.

Xoá bỏ hoàn toàn các hiệp ước bất bình đẳng

Năm 1912, Nhật Bản bắt đầu áp thuế thương mại với tư cách là một quốc gia. Hiệp ước bất bình đẳng năm 1858 bị bãi bỏ hoàn toàn. Tuy nhiên, Nhật Bản đã không đi theo con đường thiết lập quan hệ hữu nghị với các nước châu Á và cùng nhau phát triển mà Nhật Bản đã theo đuổi kể từ thời Minh Trị Duy Tân. Nó đã thông qua một chính sách bành trướng đế quốc. Việc thực dân hóa Bán đảo Triều Tiên và Đài Loan là một ví dụ điển hình.
Nền giáo dục tự hào dân tộc biến thành nền giáo dục đế quốc nhằm chèn ép các dân tộc châu Á khỏi tinh thần độc lập dân tộc. Nó sẽ biến thành chủ nghĩa chuyên chế quốc gia. Đây cũng là nguyên nhân khiến phong trào Đông Du của Việt Nam không được ủng hộ đầy đủ.
Sự phát triển nhanh chóng của chủ nghĩa tư bản Nhật Bản trong những năm 1910 khiến người ta nhận thức được những mâu thuẫn của xã hội Nhật Bản nửa phong kiến. Tranh chấp lao động, tranh chấp thuê nhà tăng mạnh. Năm 1918, bạo loạn lúa gạo nổ ra trên toàn quốc, tạo ra mâu thuẫn giữa hệ thống địa chủ và hệ thống phân phối lúa gạo. Năm 1919, Sự kiện 3.1, Cuộc biểu tình Độc lập Quốc gia của nhân dân Triều Tiên chống lại chế độ thực dân, đã diễn ra.
Cuộc bạo loạn lúa gạo có liên quan đến các cuộc đình công của nhà máy. Nó đã trở thành một chấn động trong đó có hơn 10 triệu công dân tham gia. Tình hình tồi tệ nhất là việc điều động quân đội chống lại phong trào của công nhân, nông dân và công dân lao động Nhật Bản cũng như người dân Triều Tiên, và trật tự công cộng đã được lập lại. Nguồn gốc của những cuộc bạo loạn này là do giá gạo tăng mạnh.
 
 Phong trào dân chủ và giáo dục đại chúng Taisho

Trong thời đại Taisho, một phong trào dân chủ đã nổi lên, do các nhân vật văn hóa và trí thức Nhật Bản lãnh đạo. Ngay cả sau khi cuộc bạo loạn lúa gạo lắng xuống, tranh chấp lao động vẫn không kết thúc. Từ năm 1919 trở đi, các tranh chấp lớn tiếp tục diễn ra đối với Mỏ Ashio, Nhà máy đóng tàu Kawasaki, Nhà in Tokyo, Xe điện Tokyo và Thép Yawata. Ở đó, nó trở thành một tình huống điều động quân đội. Năm 1922, Liên đoàn Công đoàn ra đời và cùng năm đó, Liên minh Nông dân Nhật Bản được thành lập.
Sau Chiến tranh thế giới thứ nhất, xã hội Nhật Bản đã thay đổi đáng kể. Chuyển dịch cơ cấu công nghiệp, chẳng hạn như sự phát triển của ngành công nghiệp hóa chất nặng, cũng đang diễn ra.
Trong thế giới giáo dục, phong trào giáo dục miễn phí đã trở nên sôi nổi, và dựa trên tinh thần tự lực nội tại của Phật giáo, thông qua tự học và tự nguyện, thực hành giáo dục bên ngoài lớp học và thông qua cuộc sống thực tế được nhấn mạnh. được thành lập vào năm 1912.
Trường trung học cơ sở được thành lập năm 1914, trường tiểu học năm 1915, trường cao đẳng dạy nghề và trường nữ sinh năm 1917, và trường trung học bảy năm năm 1922, trở thành Seikei Gakuen.
Trường Seijo được thành lập vào năm 1917 bởi sự ủng hộ của Taro Sawayanagi, một cựu quan chức giáo dục và cựu hiệu trưởng của Đại học Kyoto, người ủng hộ giáo dục thực tế. Trường là trường thực nghiệm về giáo dục lấy trẻ làm trung tâm, tôn trọng cá nhân, giáo dục gần gũi với thiên nhiên, giáo dục đề cao tình cảm, giáo dục dựa trên nghiên cứu khoa học. Trường tiểu học Seijo quy tụ nhiều giáo viên độc đáo. Kuniyoshi Obara, từ tỉnh Kagoshima, được mời vào năm 1917 để phục vụ với tư cách là giám đốc của trường tiểu học Seijo.
Khoảng năm 1920, nhiều nghệ sĩ và nhà thơ như Hakushu Kitahara đã xuất bản tạp chí văn học dành cho trẻ em "Akai Tori", có tác động lớn trong việc khắc phục các hoạt động giáo dục lấy trẻ làm trung tâm và giáo dục thống nhất xâm nhập.
Năm 1924, Trường tư thục Children's Mura Elementary School ra đời ở Ikebukuro, Tokyo, hướng đến mục tiêu giáo dục miễn phí là nơi trẻ em sống trong thế kỷ giáo dục như Yasaburo Shimonaka.

Một phong trào giáo dục mới dựa trên lối sống

Giáo dục lối sống sẽ phát triển song hành với nền giáo dục định hướng lối sống mới. Phong trào giáo dục về cách đánh vần cuộc sống lan rộng khắp cả nước như một phương pháp giáo dục cho phép trẻ em thể hiện cuộc sống như hiện tại, bởi vì điều kiện sống của trẻ em rất quan trọng trong việc theo dõi sự phát triển của chúng.
Năm 1919, các giáo viên cũng thành lập một tổ chức gọi là Hiệp hội giáo viên Nhật Bản Keimeikai để tự thành lập và việc dân chủ hóa giáo dục được thực hiện như một phong trào tự nguyện của các giáo viên.
Năm 1921, Motoko Hani thành lập một trường nữ sinh bảy năm "tự túc, tự lực". Chúng tôi đã phát triển giáo dục để tự mình sản xuất ra những thứ cần thiết cho cuộc sống hàng ngày. Ông chỉ trích nền giáo dục học đường thời bấy giờ xa rời cuộc sống thực và nhấn mạnh tầm quan trọng của giáo dục trong việc cải thiện địa vị của phụ nữ.
 
Magosaburo Ohara, một nhà quản lý nhân đạo

Magosaburo Ohara, người quản lý của Kurashiki Spinning và Kurashiki Silk Weaving, công ty có khối tài sản lớn nhờ phát triển ngành kéo sợi, đã và đang thúc đẩy các hoạt động giáo dục, văn hóa và nghiên cứu như một phần đóng góp xã hội và trách nhiệm xã hội của mình với tư cách là người quản lý công ty. cơ sở. 1914 Viện Nghiên cứu Nông nghiệp Ohara (sau này được chuyển giao cho Đại học Okayama) tiến hành nghiên cứu thực địa về cải thiện nho và đào đặc sản của Okayama và thu thập các tài liệu nông nghiệp đẳng cấp thế giới để phát triển nông nghiệp địa phương.
Năm 1919, ông thành lập Viện Ohara về các vấn đề xã hội với tư cách là một viện nghiên cứu nhằm khắc phục các vấn đề xã hội. Các nhà nghiên cứu trẻ tiến bộ của Nhật Bản như Tatsuo Morito, người đã dịch các tài liệu liên quan đến Marx, đã lớn lên. Năm 1921, ông thành lập Viện Lao động và Khoa học Lao động, chuyên nghiên cứu về y tế và tâm lý lao động. Năm 1922, ông thành lập Bệnh viện Trung tâm Kurashiki, mở cửa bình đẳng cho xã hội. Hỗ trợ trại trẻ mồ côi Okayama của Juji Ishii. Hơn nữa, Bảo tàng Nghệ thuật Ohara được thành lập ở Kurashiki để tạo cơ sở cho người dân đánh giá cao nghệ thuật và văn hóa. Theo cách này, đó là một phong trào trong thời đại Taisho mà các nhà quản lý doanh nghiệp tích cực trả lại một phần lợi nhuận của họ cho xã hội như một phần đóng góp xã hội và trách nhiệm xã hội của họ, đồng thời đảm nhận lợi ích công cộng.
 
 Cải cách giáo dục trong thời đại Taisho

Trong thời kỳ Taisho, phong trào cải cách giáo dục đã trở thành một vấn đề lớn đối với chính phủ. Chính phủ đã thành lập một hội đồng giáo dục đặc biệt vào năm 1917, Hội đồng Tư vấn về Giáo dục, báo cáo trực tiếp với Nội các. Mục đích của hội đồng là điều tra và thảo luận những vấn đề quan trọng để cải cách mạnh mẽ giáo dục. Họ yêu cầu các báo cáo và đề xuất ban đầu về giáo dục. Trong suốt một năm rưỡi thảo luận, 12 báo cáo đã được đưa ra trong chín lĩnh vực, bao gồm giáo dục tiểu học, giáo dục đại học phổ thông, giáo dục đại học và dạy nghề, giáo dục giáo viên, hệ thống thanh tra, giáo dục phụ nữ, giáo dục nghề nghiệp, giáo dục phổ thông, và hệ thống bằng cấp. .
Năm 1918, Luật Thanh toán Kho bạc Quốc gia được ban hành thành luật do "kho bạc quốc gia thanh toán chi phí giáo dục bắt buộc cho các thành phố" liên quan đến giáo dục tiểu học. Đó là luật trong đó ngân khố quốc gia chịu một phần chi phí trả lương cho giáo viên tiểu học và các thành phố. Đây là một nền giáo dục bắt buộc đối với mọi công dân, bất kể cha mẹ họ giàu hay nghèo, thị trấn và làng mạc của họ giàu hay nghèo. Đối với gánh nặng của ngân khố quốc gia, lương của giáo viên giảm một nửa và chính quyền thành phố giảm một nửa.

Chủ nghĩa phát xít Nhật và nền giáo dục

 Cuộc khủng hoảng tài chính năm 1927 và cuộc Đại suy thoái năm 1929 đã tàn phá nghiêm trọng các vùng nông thôn có cấu trúc nửa phong kiến. Vào những năm 1920, trong cơ cấu kinh tế - xã hội xuất hiện những mâu thuẫn do sự phát triển của chủ nghĩa tư bản Nhật Bản. Người khổng lồ Suzuki & Co., công ty thống trị nền kinh tế Nhật Bản, đã phá sản.
Công nghiệp nặng và hóa chất phát triển chủ yếu trong lĩnh vực quân sự, nhưng trong thời kỳ Taisho, ngành dệt may quốc gia cũng chuyển sang sản xuất nhà máy cơ khí. Cả giai đoạn công nghiệp của Nhật Bản và nền kinh tế quốc dân sẽ chuyển sang sản xuất công xưởng cơ khí.
Tuy nhiên, cơ cấu lương thấp của lực lượng lao động được hỗ trợ bởi cấu trúc nông thôn nửa phong kiến ​​sẽ không thay đổi, và việc tích lũy tư bản nhà máy dệt địa phương sẽ lại dẫn đến sự tích tụ quyền sở hữu đất đai của địa chủ. Nói cách khác, họ bị xiềng xích phong kiến ​​trói buộc, hạn chế sự phát triển của nền sản xuất công xưởng hiện đại.
Sự phát triển của các nhà máy cơ giới hóa, chẳng hạn như ngành dệt may, được coi là phong trào canh tác tự cung tự cấp của tầng lớp thượng lưu nhằm phát triển nền kinh tế địa phương một cách độc lập trong khu vực. Sự phát triển của công nghiệp nông thôn với tư cách là ngành kinh doanh phụ của nông dân cũng đã có một bước ngoặt mới. Tuy nhiên, sự phát triển của một nền kinh tế trang trại tự do đã không được phát triển đầy đủ. Kinh tế trang trại nói chung đời sống rất khó khăn.
Những năm 1930, giữa cuộc Đại khủng hoảng, đã mang đến sự thay đổi xã hội toàn diện là điều tất yếu. Đặc biệt, việc xóa bỏ chế độ địa chủ vốn là mâu thuẫn trong cấu trúc nông thôn nửa phong kiến ​​đã trở thành một vấn đề xã hội. Thực hiện được một phần các biện pháp tạo điều kiện cho nông dân làm chủ. Đó là một nỗ lực để làm dịu những mâu thuẫn của hệ thống địa chủ. Hơn nữa, là một phần của phong trào khôi phục nông thôn, chính phủ đã thực hiện các biện pháp để kích thích các hoạt động kinh tế độc lập của nông dân.
Tuy nhiên, không thể cải cách vấn đề của hệ thống địa chủ, vốn là một cấu trúc nửa phong kiến ​​mâu thuẫn cơ bản, hệ thống việc làm rời bỏ hình thức cũ và hệ thống Zaibatsu. Bộ máy nhà nước chuyên chế vẫn mạnh. Tự do và dân chủ hóa không thể được thúc đẩy từ cấu trúc mâu thuẫn của xã hội. Không thể phát triển đầy đủ các biện pháp để thúc đẩy các hoạt động kinh tế độc lập của người dân. Và mâu thuẫn sẽ hướng đến các hoạt động gây hấn ở nước ngoài.  
Toyosaku Odaka và Michitoshi Odauchi đã thành lập Liên đoàn Giáo dục Địa phương vào năm 1930, lo ngại về khoảng cách đáng kể giữa giáo dục trường học và cộng đồng địa phương. Nhấn mạnh vào vai trò của tài liệu giảng dạy địa phương trong việc nuôi dạy trẻ em. Phong trào giáo dục địa phương này, trong khi ý thức được thực tế khắc nghiệt của cuộc sống ở các vùng nông thôn, đã tìm cách củng cố phong trào phục hồi tự lực của khu vực thông qua giáo dục.
Giữa thời kỳ suy thoái ở các vùng nông thôn, một phong trào giáo dục của nông dân được gọi là giáo dục kiểu trường luyện thi đã được phát triển để đào tạo nguồn nhân lực trung cấp cho sự phát triển của làng. Yamazaki Nobekichi thành lập một trường luyện thi vào năm 1929, trường này đã ảnh hưởng đến việc thành lập các phòng đào tạo nông dân ở nhiều nơi. Kanji Kato điều hành Viện Đào tạo Nông dân của Viện Đào tạo Tự trị Yamagata, nhưng nó đã bị bãi bỏ vào năm 1933 và trở thành một trường trung học quốc gia cấp tỉnh. Không giống như các võ đường nông dân tư nhân khác, nó sẽ được đưa vào hệ thống trường học. Con đường nông dân với tư cách là nguồn nhân lực hữu ích cho quốc gia được nhấn mạnh trong giáo dục. Phong trào giáo dục nông dân dựa trên chủ nghĩa trọng nông dân tộc cũng được mô phỏng theo trường học quốc gia Đan Mạch, nhưng nó không dẫn đến sự độc lập của nông dân và phúc lợi của nông dân ở khu vực họ sinh sống, mà dựa trên chủ nghĩa dân tộc chủ nghĩa và sự xâm lược của nước ngoài. lên nhóm tiên phong và trở thành nền tảng xã hội của chủ nghĩa phát xít.

Cuộc sống dưới chế độ quân phiệt và phong trào khoa học

Tạp chí "Giáo dục", được thành lập bởi Mantaro Kido và những người khác vào năm 1933, là một phong trào giáo dục coi trọng chủ nghĩa sống và chủ nghĩa khoa học. Các nhà giáo dục tập hợp tại nhóm nghiên cứu khoa học giáo dục này sẽ trở thành thành viên dẫn dắt các lý thuyết giáo dục mới ở Nhật Bản trong bối cảnh dân chủ hóa sau chiến tranh.
Năm 1931, Sự kiện Mãn Châu bắt đầu và hệ thống quốc gia quân phiệt của Nhật Bản tăng cường xâm lược toàn diện Trung Quốc. Năm 1935, Sắc lệnh trường học thanh niên được ban hành và một hệ thống giáo dục quân sự cho động viên chung được thành lập. Năm 1937, hướng dẫn thực hiện cuộc tổng động viên tinh thần dân tộc được ban hành, và tất cả các cơ sở giáo dục được huy động để thúc đẩy chủ nghĩa phát xít.
Sau nền dân chủ Taisho, đây là một hệ thống vận động tư tưởng đàn áp chủ nghĩa tự do dân tộc, dân chủ, chủ nghĩa xã hội, các phong trào lao động, tranh chấp thuê nhà và các phong trào xã hội như một tấm lưới. Nó tìm cách huy động tối đa sức dân tham gia chiến tranh xâm lược. Giữa lúc nông dân Nhật Bản bị bần cùng hóa, ông đã tổ chức tư tưởng trọng nông thành chủ nghĩa quân phiệt.
Trong hệ thống phát xít, các trường thanh niên tồn tại liên quan đến các hoạt động kinh tế và phát triển khu vực ở các khu vực và công ty. Truyền thống của các trường bổ túc nghề, giáo dục phổ thông, giáo dục nghề nghiệp và các hoạt động đào tạo liên tục được phát triển trong cộng đồng và các công ty đã được phản ánh rất nhiều trong việc thành lập các trường học dành cho thanh niên. Sau thất bại của chủ nghĩa quân phiệt Nhật Bản vào năm 1945, năng lượng của hoạt động giáo dục này sẽ tiếp tục trong các hoạt động giáo dục liên quan đến tái thiết và phát triển kinh tế sau chiến tranh ở Nhật Bản và phát triển khu vực mới.

Giáo dục trong thời kỳ tái thiết sau chiến tranh

 Năm 1945 đánh dấu sự khởi đầu của một trang sử mới cho Nhật Bản. Chủ nghĩa quân phiệt và chủ nghĩa phát xít Nhật đã bị đánh bại. Các hoạt động dân chủ của thời kỳ trước chiến tranh được tự do hóa và khơi dậy nguồn sinh lực mới của dân tộc. Ở các làng nông nghiệp, cải cách ruộng đất đã được thực hiện và tranh chấp thuê đất trở nên không cần thiết. Người nông dân đã tận dụng tốt khả năng của mình và làm việc chăm chỉ để làm cho cuộc sống của họ giàu có hơn. Các tập quán lao động phong kiến ​​biến mất, và nền dân chủ của Nhật Bản tiến bộ trong nhiều lĩnh vực.
Ngay sau khi chiến tranh kết thúc, nhiều trẻ em mồ côi cha mẹ do các cuộc không kích và các sự cố khác đã tràn ngập Tokyo như những đứa trẻ đường phố. Vấn đề mồ côi chiến tranh là một vấn đề xã hội nghiêm trọng. Các vấn đề liên quan đến trẻ em bị chi phối bởi vấn đề phúc lợi trẻ em trong hoàn cảnh nghèo đói tuyệt đối và quản lý bảo vệ lao động vị thành niên. Hệ thống giáo dục bắt buộc 9 năm sau chiến tranh bắt đầu vào tháng 4 năm 1947, nhưng trường lớp và cơ sở vật chất vô cùng tồi tàn, thiếu giáo viên trầm trọng. Cũng có hai lớp học, và lớp học là lớp học sushi.
Những vết sẹo của chiến tranh là rất lớn, và người dân của đất nước bị tàn phá này có quan điểm giải phóng khỏi chiến tranh. Một mặt, tình trạng thiếu lương thực xảy ra. Nền kinh tế bắt đầu từ sự sụp đổ của năng suất quốc gia.
Trong hoàn cảnh đó, hệ thống quân phiệt bị dỡ bỏ, cải cách ruộng đất nông nghiệp và tam quyền phân công được thành lập, và các phong trào quần chúng như phong trào công nhân và phong trào nông dân gia tăng.
Được hỗ trợ bởi phong trào dân chủ hóa này và sức sống của quá trình tái thiết sau chiến tranh, nhiều biện pháp dân chủ hóa khác nhau đã được đưa ra trong thế giới giáo dục. Nói cách khác, một nền giáo dục mới vì hòa bình và dân chủ sẽ bắt đầu trên cơ sở phản ánh chiến tranh xâm lược và chủ nghĩa quân phiệt. Là một hệ thống giáo dục dân chủ, các chính sách và hoạt động giáo dục dân chủ hóa đã được thực hiện, chẳng hạn như hệ thống bầu cử công khai cho các hội đồng giáo dục, chương trình giảng dạy cốt lõi và các trường trung học phổ thông với hệ thống toàn diện khu vực.
 
Phục hồi ngắn hạn đất bị tàn phá

Mười năm sau chiến tranh, nền kinh tế Nhật Bản đã phục hồi trở lại mức trước chiến tranh. Đó là một thành tựu ngắn hạn bất ngờ từ sự tàn phá sau chiến tranh.
Đất nước bị tàn phá bởi chiến tranh đã được khôi phục hoàn toàn trong mười năm và mức năng suất trước chiến tranh đã được khôi phục hoàn toàn. Ở khu vực nông thôn, năng suất sẽ ở mức cao nhất mọi thời đại. Mười năm sau chiến tranh là một bước nhảy vọt để tạo ra một xã hội mới ở Nhật Bản.
Tôi sinh ra ở một khu vực có hệ thống giáo dục bắt buộc 9 năm và tôi cũng đang sống ở trường trung học. Các trường dạy nghề nâng cao trở thành trường đại học, và các trường đại học quốc gia được thành lập ở tất cả các tỉnh. Đã có sự gia tăng đáng kể về số lượng các trường đại học. Nó giúp nhiều người có thể vào các trường đại học. Việc phổ cập toàn diện các trường đại học phải chờ đợi sự tăng trưởng kinh tế cao.
Vào nửa cuối những năm 1950, tivi đen trắng, tủ lạnh chạy điện và máy giặt chạy điện bắt đầu phổ biến, đạt gần 100% vào năm 1965. Năm 1961, một sự bùng nổ giải trí đã xảy ra và số lượng ô tô cá nhân đã vượt qua con số 4 triệu. Số lượng TV vượt quá 10 triệu. Vào nửa sau của những năm 1960, các mặt hàng tiêu dùng lâu bền cỡ lớn như ô tô, máy điều hòa không khí và TV màu đã trở nên phổ biến trong mỗi hộ gia đình khi kỷ nguyên 3C và chúng ta bước vào kỷ nguyên xã hội tiêu dùng đại chúng. Năm 1967, hơn 10.000 người bị tai nạn giao thông.

Mâu thuẫn của tăng trưởng kinh tế cao

Tăng trưởng kinh tế nhanh chóng đã bỏ quên sự phát triển cá nhân của trẻ em. Trong mối quan hệ giữa con cái và cha mẹ cũng vậy, sự bao bọc quá mức và sự phóng túng sinh ra hiện tượng con nhỏ. Nó xảy ra rằng hiện tượng cưng chiều trẻ em trong giấy thông hành chỉ được thỏa mãn bởi các mối quan hệ kinh tế. Hiện tượng bần cùng hóa tinh thần đối với cha mẹ và con cái đang xảy ra.
Với sự gia tăng các hộ gia đình có thu nhập kép, sự nghèo nàn của hệ thống xã hội nuôi dạy trẻ em đang trở thành một vấn đề đối với trẻ em. Ngoài ra, thời gian làm việc dài của các ông bố là một khía cạnh tiêu cực lớn của việc trở thành con người của công ty, và trong trường hợp không có hệ thống hỗ trợ cộng đồng cho các bà mẹ gặp khó khăn, các bà mẹ đơn thân nuôi con ngày càng nhiều. Các vấn đề lạm dụng trẻ em do rối loạn thần kinh làm cha mẹ cũng xảy ra.
Tăng trưởng kinh tế nhanh chóng tập trung vào khu liên hợp công nghiệp nặng và hóa chất. Trong khu công nghiệp nặng và hóa chất, trẻ em và những người dân khác đang phải chịu đựng các vấn đề ô nhiễm không khí nghiêm trọng. Đó là một vấn đề được gọi là Kawasaki Zensoku và Yokkaichi Zensoku. Hơn nữa, ô nhiễm không khí ở các thành phố lớn do khí thải ô tô đang trở thành một vấn đề nghiêm trọng.
Các vấn đề ô nhiễm do tác động bất lợi của tăng trưởng kinh tế cao xảy ra trên khắp đất nước. Vào nửa cuối những năm 1960, phong trào khắc phục vấn đề ô nhiễm của cư dân trở nên sôi nổi. Mâu thuẫn trở nên nghiêm trọng hơn, chẳng hạn như phòng học tiền chế ở trường tiểu học và trung học cơ sở, trường học quy mô lớn.

Thương mại hóa văn hóa thiếu nhi

Một trong những đặc điểm chính của xã hội tiêu dùng đại chúng là sự biến mất của văn hóa địa phương như các sự kiện truyền thống dành cho trẻ em và các tập quán nuôi dạy trẻ. Đó cũng là quá trình mất đi văn hóa bản địa và dân tộc. Đặc biệt, dòng dân cư từ các làng nông thôn ra thành phố và hiện tượng quá tải và hình thành bánh rán ở các thành phố lớn làm suy yếu văn hóa truyền thống của khu vực. Đồ chơi mới trở nên phổ biến và cuộc sống của trẻ em bị ảnh hưởng bởi các xu hướng do các phương tiện truyền thông đại chúng tạo ra. Vui chơi và văn hóa của trẻ em đã được hàng hóa hóa. Khi đồ chơi trở nên phức tạp hơn, trẻ em trở nên gắn bó với đồ chơi được thương mại hóa. Ngoài ra, đồ chơi của các nhân vật truyền thông đại chúng trở nên phổ biến đối với trẻ em. Sở thích ăn uống của trẻ em cũng trở thành quảng cáo trên truyền hình. Thật vậy, cuộc sống và văn hóa của trẻ em sẽ trở thành đối tượng kiếm lời như một thị trường hàng hóa rộng lớn. Một đặc điểm khác của xã hội tiêu dùng đại chúng của Nhật Bản trong thời kỳ tăng trưởng kinh tế nhanh chóng là trẻ em đang trở thành mục tiêu chính trên thị trường sản phẩm.
Đối với những bậc cha mẹ lớn lên trong hoàn cảnh nghèo khó tuyệt đối, việc muốn cho con cái họ những thứ giàu có đang diễn ra theo logic tiêu dùng đại chúng.
Văn hóa tiêu dùng theo chủ nghĩa khoái lạc trong một xã hội tiêu dùng đại chúng bị ảnh hưởng rất nhiều bởi việc hàng hóa hóa đồ chơi của trẻ em và các vấn đề tài chính trong cuộc sống của trẻ em. Giữa những thay đổi trong một xã hội tiêu dùng đại chúng, vấn đề hàng hóa kinh tế đi vào thế giới vui chơi độc đáo của trẻ em.
Trong một xã hội tiêu dùng đại chúng, chúng ta không thể bỏ qua văn hóa giải trí kích thích của các phương tiện truyền thông. Khi đời sống cộng đồng của trẻ em đang sụp đổ, ảnh hưởng của các phương tiện truyền thông đại chúng đang xâm nhập vào một nền văn hóa thuần túy. Văn hóa thiếu nhi đôi khi bị dẫn dắt và thao túng bởi các phương tiện thông tin đại chúng.

 

Hiện tượng giáo dục đại học

Sự phát triển của giáo dục phổ thông sau chiến tranh là việc thiết lập chín năm giáo dục bắt buộc với việc thành lập hệ thống trường trung học cơ sở mới, và tỷ lệ nhập học trung học vượt quá 95%, khiến nó trở thành bán bắt buộc. Các cơ sở giáo dục đại học cũng đã có những tiến bộ rõ rệt, hơn 30% học sinh tốt nghiệp trung học phổ thông tiếp tục học lên cao đẳng hoặc cao đẳng. (34,2% năm 1975, 30,6% năm 1990, 36,0% năm 1994).
Năm 1950, tỷ lệ nhập học trung học là 42,5%, chưa đến một nửa. Ngay trong năm 1975, 30,3% học sinh tốt nghiệp phổ thông vào đại học,... Tuy nhiên, do tỷ lệ nhập học trung học phổ thông thấp nên tỷ lệ nhập học đại học trong cùng lứa tuổi cũng thấp. Cùng với sự gia tăng nhanh chóng tỷ lệ nhập học trung học, tỷ lệ học sinh tốt nghiệp trung học vào đại học đã giảm xuống còn 17,2% vào năm 1960. Từ năm 1960 trở đi, cùng với sự tăng trưởng kinh tế của Nhật Bản, tỷ lệ nhập học đại học tăng nhanh cho đến năm 1975. Tỷ lệ nhập học trung học tăng hơn 90% là một bước phát triển mang tính thời đại trong việc phát triển quyền học tập của trẻ em. Tuy nhiên, thực tế là khoảng một phần ba học sinh tốt nghiệp trung học tiếp tục học đại học đã không thay đổi trong 20 năm kể từ năm 1975. Trong bối cảnh phổ cập giáo dục phổ thông như một nền giáo dục gần như bắt buộc, logic cạnh tranh trong các kỳ thi tuyển sinh vào đại học, v.v. Sự gia tăng tỷ lệ nhập học của hơn 95% học sinh trung học và tỷ lệ nhập học vào các trường đại học, v.v., sẽ tăng cường cạnh tranh quốc gia để tiến tới giáo dục đại học.

mâu thuẫn giáo dục đại học

Tăng trưởng kinh tế nhanh chóng làm tăng tỷ lệ nhập học trung học và thúc đẩy phổ cập các trường đại học. Điều này có tiềm năng phổ biến khoa học và công nghệ trong xã hội và nâng cao khả năng trí tuệ và văn hóa của công chúng. Trong quá trình phổ cập đại học, vấn đề định hướng nền tảng giáo dục trùng lặp với lịch sử nhà trường do giáo dục lệch hướng, là sự cạnh tranh dựa trên cùng một nội dung và tiêu chuẩn giá trị giáo dục, và sự chênh lệch trường lớp. Khi nhãn giữa các trường trở nên quan trọng hơn, sự cạnh tranh để giành quyền đặt tên trường đang diễn ra. Khi giáo dục trung học trở nên gần như bắt buộc, sự cạnh tranh giành quyền lực giữa các trường càng trở nên gay gắt hơn. Điều này đã dẫn đến sự cạnh tranh ngày càng gay gắt trong các kỳ thi tuyển sinh, sự chênh lệch giữa các trường do sự phân chia và sự đồng nhất trong giáo dục. Những mâu thuẫn xung quanh giáo dục tăng lên khi sự phổ biến của chủ nghĩa nghề nghiệp thông qua các trường học.
Khi độ tuổi cạnh tranh của trẻ em trong các kỳ thi tuyển sinh ngày càng trẻ hóa, mối quan hệ với những người khác trong quá trình phát triển của trẻ em được coi là liên quan đến cạnh tranh, và quá trình xã hội hóa ban đầu của trẻ em được tạo ra trong các nhóm như bạn cùng chơi của trẻ em. nảy sinh tinh thần hợp tác, đoàn kết. Trong bối cảnh kinh tế tăng trưởng nhanh chóng, mối quan hệ mâu thuẫn này giữa những đứa trẻ càng được thúc đẩy.
Một số lượng lớn học sinh trung học bỏ học đang xuất hiện do nền giáo dục phân biệt đối xử và chọn lọc dựa trên "sự khác biệt về năng lực học tập". Học sinh bỏ học được huy động vào thị trường lao động bấp bênh của xã hội. Hiện tượng bỏ học tạo nên người nghèo. Một thất bại trong giáo dục ở trường được coi là một thất bại trong cuộc sống.
Những người bị phân biệt đối xử và phân loại trong giáo dục nhà trường, chẳng hạn như học sinh bỏ học, tạo ra người nghèo. Các lớp này cũng liên quan đến vấn đề sẵn sàng làm việc và sẵn sàng sống.
 
Sự phân rã của tầng lớp thượng lưu Nhật Bản

Nhiều người trong giới tinh hoa quyền lực của Nhật Bản tốt nghiệp từ những trường đại học được gọi là nổi tiếng, và không cần phải nói rằng nhiều vụ bê bối tham nhũng đã xảy ra, và các quan chức, chính trị gia và lãnh đạo công ty cũng đã gây ra các vấn đề xã hội. Ngoài ra, trong thời kỳ bong bóng, nhiều vụ tham nhũng tài chính, phát triển ngoài kế hoạch và giao dịch đất đai đã xảy ra, tạo ra những khoản nợ khó đòi khổng lồ và gây ra tình trạng suy thoái kinh tế kéo dài, mà nhiều nguyên nhân là do những người tốt nghiệp từ các trường đại học ưu tú.
Chúng ta cũng có thể thấy sự suy đồi của những người đã leo lên đỉnh cao của sự nghiệp. Ngoài ra, như đã thấy trong Sự kiện Aum, những sinh viên trẻ tốt nghiệp đại học ưu tú, những người sẽ gánh vác tương lai của Nhật Bản, đã bị sử dụng cho các hoạt động lật đổ xã ​​hội bởi người sáng lập giáo phái với quyền lực tuyệt đối mù quáng. Một nền giáo dục đại học đã được đặt câu hỏi.
Sự phát triển kinh tế của Nhật Bản gắn liền với chính sách tài chính quốc gia, dẫn đến tham nhũng chính trị và suy đồi xã hội dưới hình thức quyền lực đồng tiền, có tác động tiêu cực lớn đến sự phát triển đạo đức của trẻ em. Suy thoái chính trị làm tăng sự mất lòng tin của trẻ em đối với các nhà lãnh đạo xã hội.
Vào nửa cuối những năm 1980, xã hội Nhật Bản say sưa với nền kinh tế bong bóng bất thường, và một lượng vốn đầu tư khổng lồ chảy vào các lĩnh vực đầu cơ như cổ phiếu, đất đai, ngoại hối và giao dịch kỳ hạn, và nhiều tệ nạn xã hội xung quanh tiền tệ nổ ra. Các vụ bê bối của các tổ chức tín dụng, chẳng hạn như bê bối chứng khoán, cho vay bất hợp pháp của các ngân hàng, bán phá giá bất hợp pháp và một lượng lớn các khoản nợ xấu của các ngân hàng và hiệp hội tín dụng, rất dễ thấy. Đây là tình trạng đầu cơ cờ bạc tràn lan trong lĩnh vực tài chính và tín dụng đang thống trị Nhật Bản, đồng thời cho thấy mức độ suy đồi nghiêm trọng của xã hội. Hơn nữa, những vụ bê bối của Sự cố Lokido, Sự cố tuyển dụng và Sự cố chuyển phát nhanh Sagawa do giới thượng lưu, những người chịu trách nhiệm về chính trị và điều hành gây ra, có tác động tiêu cực nghiêm trọng về mặt đạo đức đối với những đứa trẻ sẽ gánh vác tương lai. .

Câu hỏi về đạo đức doanh nghiệp

Sau sự sụp đổ của bong bóng vào năm 1992, suy thoái kinh tế kéo dài đã bộc lộ những vấn đề về đầu tư tư bản mang tính đầu cơ, và về mặt xã hội, những vấn đề của nền kinh tế bong bóng đã bộc lộ. Kết quả của sự phản ánh này, câu hỏi về các giá trị xã hội mới được sinh ra. Vào tháng 10 năm 1991, sau vụ bê bối chứng khoán, Điều lệ Hành vi Doanh nghiệp của Keidanren đã được ban hành như sau: bảy nguyên tắc về trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp.


"1. Làm việc để cung cấp hàng hóa và dịch vụ xuất sắc và hữu ích cho xã hội. 2. Làm việc để mang lại sự thoải mái và thịnh vượng cho nhân viên, đồng thời tôn trọng lòng nhân đạo của nhân viên. 3. Các hoạt động của công ty có tính đến việc bảo vệ môi trường. 4. Tích cực nỗ lực đóng góp cho xã hội thông qua các hoạt động từ thiện 5. Cố gắng cải thiện phúc lợi của cộng đồng địa phương thông qua các hoạt động kinh doanh 6. Không tham gia vào các hoạt động của các tổ chức có ảnh hưởng xấu đến trật tự an toàn xã hội 7. Chúng tôi sẽ luôn cố gắng giao tiếp với người tiêu dùng và người tiêu dùng thông qua quan hệ công chúng và công chúng các hoạt động điều trần, v.v., và đảm bảo rằng các nguyên tắc ứng xử của công ty phù hợp với lẽ thường của xã hội. nỗ lực."

Điều lệ công ty này sẽ giảm bớt rất nhiều áp lực xã hội đối với phía công ty trong việc kiểm soát một cách có đạo đức xu hướng ưu tiên lợi nhuận và mong muốn mở rộng quy mô bất kể hình thức bên ngoài. Vào những năm 1960, khi tăng trưởng kinh tế là ưu tiên hàng đầu, mở rộng quy mô là logic chủ đạo của các công ty và vấn đề ngăn ngừa ô nhiễm bị bỏ quên. Tuy nhiên, trong những năm 1990, kinh doanh bảo vệ môi trường đã thu hút nhiều sự chú ý như một ngành công nghiệp mới đầy triển vọng. Ngoài ra còn có đạo đức sống có ích cho xã hội và làm nền tảng cho lợi nhuận của công ty.

Mâu thuẫn trong trường học làm giàu của Nhật Bản

Với việc trở thành một siêu cường kinh tế, Nhật Bản đã thay đổi từ một xã hội sản xuất sáng tạo sang một xã hội con người tiêu thụ với số lượng lớn. Sự phổ biến của các trường công nghiệp và giáo dục khoa học giảm sút. Ở Nhật Bản, việc trẻ em giảm hứng thú với khoa học đã trở thành một vấn đề nghiêm trọng.
Xu hướng cung cấp giáo dục liên quan đến công việc thực tế đang yếu đi. Số lượng thanh niên làm công việc bán thời gian tạm thời đã tăng lên hơn 2 triệu và số trẻ em không được đến trường, chẳng hạn như học sinh tiểu học và trung học cơ sở, đã tăng lên 130.000.
Ngoài ra còn có một xu hướng ngày càng tăng để làm cho nó dễ dàng và kiếm được thu nhập ổn định. Ngày càng có nhiều thanh niên miễn cưỡng làm những công việc gắn liền với nơi làm việc thực tế.
Giáo viên phổ thông cũng được trả lương cao hơn so với công chức nói chung nên khó thi tuyển dụng để trở thành giáo viên. Hành vi có vấn đề của trẻ em cũng đang tạo ra nhiều vấn đề khác nhau trong xã hội tiêu dùng.

Phong trào vượt qua mâu thuẫn

Vào nửa cuối những năm 1960, chính người dân đã hành động để giải quyết những mâu thuẫn trong xã hội và yêu cầu chính phủ trung ương và chính quyền địa phương hợp tác với các công ty. Lý thuyết dân sự tối thiểu sẽ được thiết lập trong các chính quyền địa phương thông qua các biện pháp khắc phục những biến dạng của tăng trưởng kinh tế nhanh, ngăn ngừa ô nhiễm và quyền tự chủ của công dân vốn chú trọng đến phúc lợi. Đây là nơi nhận thức về việc thiết lập nền dân chủ khu vực thông qua sự tham gia của người dân ngày càng tăng. Ở nhiều chính quyền địa phương, cái gọi là chính quyền địa phương sáng tạo sẽ được tạo ra bởi Đảng Xã hội, Đảng Cộng sản và các nhóm công dân.
Trong thời kỳ kinh tế tăng trưởng cao, Mỹ càng đẩy mạnh xâm lược Việt Nam. Cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam được thực hiện bởi các căn cứ quân sự của Mỹ ở Nhật Bản, bao gồm cả Okinawa, và phong trào hòa bình đã được thúc đẩy.
Như đã mô tả ở trên, trong thời kỳ tăng trưởng kinh tế cao, sự trỗi dậy của phong trào nhân quyền và phong trào vì hòa bình và dân chủ cũng có tác động lớn đến thế giới trẻ em.
Chúng ta phải nhấn mạnh thực tế rằng những người trẻ tuổi bị tụt hậu trong giáo dục phổ thông và mất động lực làm việc có thể phát triển thông qua sự tương tác giữa con người với các chủ doanh nghiệp vừa và nhỏ xuất sắc bên ngoài giáo dục nhà trường. Có rất nhiều người trẻ tuổi đã đạt được sự phát triển cá nhân mới nhờ sức mạnh giáo dục của công ty.
Tại cuộc họp thường niên năm 1993 của Hội đồng Quốc gia Hiệp hội Doanh nghiệp Vừa và Nhỏ, có khoảng 40.000 thành viên trên toàn quốc, đã nói rằng với tư cách là một doanh nghiệp vừa và nhỏ của thế kỷ 21, đó là "một công ty nhận thức được sứ mệnh xã hội của mình". và được người dân và cộng đồng địa phương tin tưởng và kỳ vọng cao." group được xây dựng là một công ty có thể tiếp tục phát triển hướng tới tương lai.Có rất nhiều ví dụ thực tế về phát triển con người ở những công ty như thế này. Không phải giáo dục ở trường để lớn lên cùng nhau, mà những người trẻ tuổi được giáo dục ở trường chọn lọc đang trưởng thành như những con người bằng cách tiếp thu giáo dục trí tuệ và kỹ năng tại các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Thực tiễn của Hiệp hội doanh nghiệp vừa và nhỏ cho thấy rằng sự thất bại của giáo dục nhà trường không có nghĩa là kết thúc cuộc đời.
Ngoài ra, các hợp tác xã của công nhân đang nổi lên như những công ty mới trong đó công nhân đầu tư và cùng quản lý chúng. Nó được phát triển đầy đủ vào năm 1990. Năm 1992, nguyên tắc hợp tác xã của người lao động đã được khẳng định và một tổ chức doanh nghiệp ra đời với mục tiêu quản lý tăng trưởng con người dựa trên sự độc lập, hợp tác và tình yêu thương dựa trên công việc và giáo dục, trong đó người lao động là nhân vật chính của doanh nghiệp.
Sự gia tăng xã hội về số lượng các công ty phát triển cùng với các công ty như vậy đã làm nảy sinh những quan điểm mới về vấn đề con đường sự nghiệp của trẻ em.
Ngày càng có nhiều mối quan tâm đến đóng góp xã hội và đạo đức của các công ty, câu hỏi về sự sung túc, câu hỏi về một xã hội cộng sinh khỏi sự cạnh tranh, các dự án chung khác nhau trong khu vực của chính người dân và sự tham gia của người dân vào chính quyền địa phương. Trong lĩnh vực nuôi dạy trẻ cũng vậy, các phong trào hợp tác của địa phương diễn ra ở nhiều nơi, phụ huynh cũng ngày càng có phong trào bảo vệ quyền con người của trẻ em trong trường học, chẳng hạn như giáo viên trừng phạt thân thể, các vấn đề trong trường học. nội quy, và các vấn đề về quản lý học sinh dựa trên học bạ. Điều này có ý nghĩa to lớn như một phong trào khắc phục tính chất đóng cửa của các trường học và mở đường cho phụ huynh tham gia vào trường học.
Ngoài ra, với tư cách là một cuộc cải cách giáo dục từ khu vực, việc thành lập các hội đồng giáo dục khu vực cho mỗi khu học chánh có giá trị trong việc cố gắng thiết lập quyền tự chủ địa phương trong giáo dục ở các khu học chánh ở cấp khu vực sinh sống. Phong trào công dân phối hợp nuôi dạy trẻ của giáo viên và cha mẹ học sinh được phát triển.
Quá trình quốc tế hóa của Nhật Bản đang mang đến cho công chúng một góc nhìn mới về cải cách giáo dục. Trong bối cảnh đồng yên tăng giá, các cơ sở sản xuất của Nhật Bản đang chuyển sang các khu vực khác trên thế giới, bao gồm cả châu Á. Điều này sẽ trở nên rõ ràng đối với công chúng ở Nhật Bản như một vấn đề quen thuộc hơn đối với phần còn lại của thế giới, bao gồm cả châu Á. Và sẽ có thể so sánh giáo dục với phần còn lại của thế giới.
Để giáo dục trẻ em liên quan đến công việc, chúng tôi cũng đã bắt đầu thử nghiệm học tập thực hành nông nghiệp và gửi trẻ em đi du học ở các làng nông nghiệp. Vai trò của nông nghiệp và giáo dục nông thôn đang được chú ý trở lại. Đối với sinh viên đại học và những người trẻ tuổi đến các nước đang phát triển và trải nghiệm cuộc sống là một sự thay đổi lớn về giá trị.
Khả năng sáng tạo của những người trẻ tuổi đang tăng lên khi họ có trình độ học vấn cao hơn. Ngày càng có nhiều thanh niên tham gia tình nguyện vì họ muốn có ích cho xã hội. Tôi tin rằng những trao đổi với Việt Nam sẽ mang lại hướng giải quyết những mâu thuẫn giáo dục từ xã hội tiêu dùng của Nhật Bản hiện đại.

Tiến bộ của giáo dục đại học

Các trường học hiện đại với giáo dục phổ cập và cơ hội giáo dục bình đẳng đã đóng một vai trò trong lịch sử văn minh trong sự hình thành và phát triển của chủ nghĩa tư bản, nó khác với những mâu thuẫn khác nhau đi kèm với nó. Với mục tiêu giải quyết những mâu thuẫn của cạnh tranh tư bản chủ nghĩa như một triển vọng trong tương lai, cần phải tạo ra một cấu trúc đáng kể về quyền học tập với tư cách là sự hợp tác của công dân trong các trường học hiện đại.
Ở đây đặt ra vấn đề cải cách thể chế dân chủ của trường học với tư cách là một trong những hệ thống quyền xã hội đối với cạnh tranh tư bản chủ nghĩa và hợp lý. Mặc dù có một vấn đề nghiêm trọng về bắt nạt trẻ em trong xã hội, nhưng cũng cần lưu ý rằng những đứa trẻ bị tổn thương trong cuộc thi tuyển sinh đã trở nên nhạy cảm với lòng tốt của người khác. Giữa những mâu thuẫn ẩn giấu sự tiến bộ mới.
Hiện tượng giáo dục đại học sẽ làm tăng trình độ học vấn và kỹ năng nghề nghiệp của mọi người khi phổ biến khoa học. Nó góp phần to lớn vào sự phát triển của xã hội như là sự nâng cao trình độ dân trí và văn hóa xã hội.
Đối với sự phát triển của xã hội Nhật Bản sau chiến tranh, việc xóa bỏ chế độ quân phiệt là một bước tiến lịch sử quan trọng. Nhật Bản thời hậu chiến được đặc trưng bởi thực tế là các cơ sở giáo dục đại học như trường đại học không có mối quan hệ nào với nghiên cứu quân sự và các cơ sở nghiên cứu tư nhân tích cực tham gia phát triển sản phẩm liên quan đến nhu cầu tư nhân. Nó dựa trên logic của chủ nghĩa hòa bình trong phát triển khoa học và công nghệ và phát triển sản phẩm cho nhu cầu tư nhân.
Để đạt được ưu thế quân sự, phát triển quân sự nên được tiến hành càng sớm càng tốt, không quan tâm đến chi phí, nhưng phát triển sản phẩm cho nhu cầu dân sự thông qua thị trường là phát triển khoa học và công nghệ với người tiêu dùng. Ở Nhật Bản, khoa học và công nghệ được sử dụng để phát triển các sản phẩm phục vụ đại chúng cho nhu cầu cá nhân, góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.
Khoa học và công nghệ phát triển trong khu vực tư nhân, và phát triển sản phẩm cho đại chúng được thực hiện trong các lĩnh vực khác nhau. Một đặc điểm của thời kỳ hậu chiến là Nhật Bản, trong đó có các doanh nghiệp vừa và nhỏ, tiếp tục phát triển sản phẩm và thị trường trong cả nước. Điều này đã được hỗ trợ bởi sự hình thành của những người có trình độ học vấn quốc gia và các chuyên gia trong xu hướng giáo dục đại học.
Tăng trưởng kinh tế của Nhật Bản đạt được không chỉ nhờ sự siêng năng của người dân mà còn nhờ sự tiến bộ của khoa học và công nghệ tập trung vào nhu cầu cá nhân và sự sáng tạo để thương mại hóa công nghệ tiên tiến. Giáo dục đại học đã tạo điều kiện cho nhiều hoạt động phát triển sản phẩm và phát triển thị trường, bao gồm cả các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Nhiều doanh nghiệp vừa và nhỏ sau đó đã phát triển thành các công ty quốc tế.
Từ cuối những năm 1960 đến những năm 1970, các phong trào công dân về các vấn đề ô nhiễm diễn ra khắp cả nước đã tạo ra một ngành công nghiệp kiểm soát ô nhiễm mới. Chúng tôi đang tạo ra một ngành kinh doanh sinh thái mới thân thiện với môi trường ngay cả với các vấn đề về rác thải và tái chế hiện đại. Các ngành công nghiệp mới sẽ ra đời để khắc phục những mâu thuẫn xã hội khác nhau này. Sự năng động và sáng tạo của người dân, của nền giáo dục quốc dân và năng lực phát triển nghề nghiệp rộng rãi trên phạm vi toàn quốc, là những bước tiến mạnh mẽ của xã hội Nhật Bản.
Khả năng giáo dục của công ty cũng đóng một vai trò quan trọng trong việc nâng cao chất lượng và phát triển sản phẩm tiên tiến của Nhật Bản. Hình thức giáo dục nội bộ này cũng được phát triển trên cơ sở phát triển các kỹ năng cơ bản trong giáo dục học đường. Trong các trường đại học sau chiến tranh, nhiều sinh viên đã tham gia các phong trào sinh viên tìm kiếm sự tiến bộ xã hội, mỗi sinh viên tốt nghiệp làm việc trong lĩnh vực chuyên môn của mình, thực hiện đạo đức xã hội và đóng một vai trò quan trọng trong tiến bộ xã hội của Nhật Bản. Nó đã là một động lực trong sự phát triển của quyền con người và phúc lợi xã hội và sự hình thành của nền dân chủ xã hội.

 

 

日本の近代教育の成功と失敗の教訓から  
  
日本の近代化は、教育を重視した

  教育は未来をつくるものである。日本近代150年の教育の歴史を経済発展と関連させながら、成功と失敗の教訓を連載する計画である。
 教育は、人々の暮らしを豊かにしていくものである。日本は、教育の力によって、経済的に大きな国になった。日本のように、資源の少ない国土において、人材育成は、国を豊かにしていく基本であったのである。
 日本のものづくりの典型として、戦前は、良質の生糸生産にみることができる。それは、伝統的な日本の手工業技術を生かしての近代化だった。日本は伝統的な職人的な技術をうまく生かして.様々な分野で近代化した。
 日本のこだわりの技が、良質なものづくりにつながっていったのだ。戦後は、電化製品、工作精密機械、ロボット、自動車生産など世界をリードできる良質なものづくりを展開してきた。
 日本の宝は、ものをつくるうえで、創造性ある豊かな能力をもつ国民が多いことである。これは、すべての国民がいつでもどこでも学ぶことができるようになったことによって、その宝をたくさん作りだす条件ができたのだ。
 
 一万円札の肖像・福沢諭吉

日本の一万札には、今から130年ほど前に教育界で活躍した福沢諭吉の肖像になっている。かれは、日本の国を豊かにしていくために、学問のすすめを書いた人だ。学問は、一身独立して一国独立ということで、国民すべて個々が自由で豊かになることは、国民の独立の気力と能力を身につけさせることであり、そのことによって、国を豊かにし、独立していく力をつくることであるということを力説した人だ。

 かれは、私立の慶応大学をつくり、学問のすすめを民間の力で支えようとした人である。日本の大学は、官僚や教育者を養成する国立・官立大学と産業人・地域リーダーを育てる私立大学と二つの系があった。
 
 小学校は地域のコミュニティセンター

 地域生活をしているところに、学校や成人教育の施設を意識的につくりだしてきたのが日本の特徴である。小学校は、子どもが学ぶ場だけではなく、地域のコミュニティセンターとしての役割を果たしてきた。
 戦前では、小学校で地域の勤労青年が学んでいたのだ。それらは、実業補習学校として制度化されたものだった。高等教育や専門的な中等教育に行けなかった青年も地域で学ぶしくみがあったのである。また、企業内でも普通教育や職業教育が活発に展開されていたのだ。このように、日本では、大衆的な青年教育が、勤労の場で展開されていたことが特徴だった。
 戦前は、どこの小学校にも薪を背負って読書する二宮尊徳像があった。日本人の勤労観と学習観を象徴したものである。戦前の小学校は、青年や成人が学ぶ場であり、地域がまとまっていく地域の単位でもあったのだ。戦後は、地域に公民館という学習期間が生まれ、学校と機能的に分離して行く。しかし、現代の大都市など、人々の地域のまとまりが消えていくなかで、あらためて小学校コミュニティが注目されている。
 
 立身出世と実学教育

 日本でも戦前から高い学歴や有名大学をでて、立身出世しようとする考えがあった。とくに、国立大学・官立大学は、その機能を果たしてきた。戦前の日本の国家は、有能な官僚をすべての国民のなかからつくりだそうとする意図があった。
 戦前においては、経済的条件によって、一部の奨学金を得られる人は別として、すべての国民が、立身出世の競争のなかに入れるわけではなかったのだ。

 しかし、戦後の1970年代以降に、国民の生活が豊かになることによって、高校の準義務教育化の達成がされ、画一的な能力主義のもとで、国民のすべての子弟が受験競争に巻き込まれていくのだ。受験競争の結果、人間形成、生きていくための能力、実学的教育が軽視され、教科の点数を優先させる教育が横行していくのだ。
 
 現代日本の教育矛盾

 日本は、近年、経済的に豊かさになった反面に、人間関係のむずかしさ、モラルの低下、文化的退廃、自殺やノイローゼなど、多くの矛盾をかかえている。学校では、登校拒否、いじめ、校内暴力などの問題が起きている。競争主義の弊害が大きく現れているのだ。
 競争は、人々の刺激やあたらしい意欲もつくりだすが、お互いに尊重しあう人間関係がなくなる。受験競争では大きな社会問題をつくりだすのだ。日本には切磋琢磨ということばがある。切磋琢磨は、お互いに競い合って、お互いに伸びていこうとする。弱いものと強いものが共存しあいながら、刺激しあうのだ。ここでは、お互いのいいところを尊重して、共に、発展していこうとする考えが強くある。
 近年、日本の経済も停滞し、日本のなかにあったものづくりの力が弱くなっていることだ。困難なことがあっても未来にむかって、粘り強く、共にみんなが幸福になるような考えが少なくなっている。自分の利益を中心に考える弱肉強食の競争主義が横行してきているのだ。ここに、日本の深刻な問題があるのだ。
 
 日本がベトナムから学ぶこと

 ベトナムには、ちょっと前まで日本人がもっていた共同する心が強く残っている。独立の心、自立する精神が強くある。今の日本人は多くのことをベトナムから学ぶことができるのではないかと考える。日本はベトナムとの関係をとおして、アジアの一員であることを文化的に強く認識することもできる。日本文化のすばらしさをアジアとの関係をとおして、世界の人々、発展途上国に伝えていくことができるのだ。
 ベトナムはその橋渡しをしてくれる国だ。30年前に日本の若者はベトナムに平和ということで、全国各地で反戦運動を展開した。アメリカの基地の前にも平和を求めて座り込み、アメリカの兵隊に平和のよびかけをした。このなかで若者は成長し、あたらしい日本をつくっていく大人に成長し、現代日本の経済的な力を作ってきた。
 日本人の多くのなかには、ベトナムの独立の心から学び成長していったのだ。どんな困難にも負けずに、みんなでそれぞれのもてる力を出し合って日本の未来を、職場、地域、また、世界で活躍してきたのだ。今、NHKという日本のテレビ局がプロジェクトXという番組で職場、地域で日本の創造的な仕事をつくりだしてきた過去の業績の姿を放映している。日本の数々の優れた技術や製品は、一人の天才がつくりだしたのではない。みんなでそれぞれの持ち味をだし、個人、個人の職場や地域の役割を大切にして実現させてきたのだ。これは、一人一人が社会のなかでモラルをもって、そのなかでこそ生き甲斐を発揮できたのだ。
 
 21世紀の日本の課題

 日本は大きな改革をしなければならない時代だが、20世紀的時代から新しい人類の理想を築いていく必要がある。21世紀は、それぞれの民族の独立・自立した精神を基礎にして、それぞれの民族が共生し、人間が自然と共生し、世界が共に豊かになっていくことだ。それぞれの民族の文化が花咲く国際的関係をつくりあげていく時代ではないかと思う。このことによって、貧困、環境破壊、戦争という20世紀的時代の負の遺産もなくしていくことができるのだ。

 150年前の日本の寺子屋

 明治維新前は、寺子屋で多くの人々が学んでいた。国民の識字率は、男性50%以上という高い水準にあった。1858年に日本は、欧米諸国の圧力で、貿易の税金を自分の国でかけることができないことになった。また、外国人の罪を裁くことができない屈辱的な条約を結んだのだ。日本は、植民地の危機になったのだ。
 この危機を解決するのは、近代社会をつくるということで、鹿児島や山口など地方の人々が中心になって、幕府という封建的な中央政府を倒したのだ。
 この時代は、地方は独立した政府というしくみだった。それぞれの地方政府の中心地は都市を形成していたが、そこで武士のひとたちが学ぶ学校があった。また、農村には、寺子屋があった。ベトナムもフランスの植民地以前にあった学童という学習センターがあったが、日本では非常に発展していたのだ。ここでの勉強は実際に役にたつ勉強だ。武士の学校で学ぶ内容と異なっていた。科挙制度のようなものは日本にはなかった。
 
 日本の儒教の特徴

 日本の儒教は、武士ばかりではなく、農民のための学問、商人のための学問ということで、階層ごとに発達した。農民のための学者として、安藤昌益(あんどうしょうえき)二宮尊徳(にのみやそんとく)、商人のための学者として石田梅岩(いしだばいがん)など有名な思想家がうまれた。そこでは、人間の価値に、働くことや社会的モラルを強く求めたのだ。
 安藤昌益は、農民の労働の価値を中心に平等思想や環境思想をもった人だ。二宮尊徳は、勤労意欲や倹約、地域の資源を有効に使って農民の生活を豊かにしようとした。日本の封建時代でも、学問が武士だけで発達したのではない。農民、商人、職人など民衆の生活を豊かにし、生産を高めていこうと学問が発達したのだ。日本は、江戸時代に民衆の学問や文化に花が開いていたのだ。非常に純度の高い鉄の生産(たたら製鉄技術)、自然循環的農業技術、都市のリサイクルシステム、商業・商人の公益性などがあったのだ。

 石田梅岩の商人道徳

 石田梅岩は、商人のモラルを説いた人だ。儲けたお金は社会に還元し、商人になるためには、日常的に人として、愛、哀れみ、孝行を大切にし、倹約、勤勉、正直という公の正義の精神を大事にした社会モラルが必要であると力説した。商人の利益は、公に許された俸禄と同じだ。商人としての自分の道をはっきりさせるために、大衆的な教育活動を都市の商人を対象として、意欲的に実践した。
 
 二宮尊徳の農村再建の実践

 二宮尊徳は、工夫、勤勉、節約によって、苦しい生活状況であった家の経済や藩の財政を立て直した。そして、地域の経済を豊かにした人だ。どんなに身分や社会的地位が高くても収入がなければ豊かな生活をしていくことはできない。
 したがって、家や藩の財政を立て直すめに、身分や社会的地位を無視して、現実の収入状況から日常的生活を考えるようにした。このために、倹約をするということを徹底したのだ。
 荒れた土地でも工夫して新しい収入を得るように努力していく方法をとったのだ。洪水の起きる土地でも自然をよく研究し、農民の勤勉と節約によって、治水技術を開発し、豊かな村にしていったのだ。
 かれの学問は、実践のなかでの実学だ。二宮尊徳は、明治維新前の農村再建の実践的な思想家だった。尊徳の思想は、支出に限度を定め、真心を尽くし、勤勉に働き、節約し、生じた剰余を借金の返済や貯蓄に回すという徳に報いる報徳思想ということで日本の農村に大きな影響を与えた。

明治維新後の学校の形成


  日本の近代学校制度は、当初フランスなどの制度にならってつくられたが、それは、失敗した。学校をつくった当初は、農民の学校打ち壊し一揆などもあった。日本の現状にあわないということで、各地に反発がおきたのだ。そこで、日本的に村落共同体を基盤に小学校をつくった。村落のなかでは、子ども達が、学校にいくように世話をしたのだ。
 地域に根付いた学校ということで、住民は、地域の文化センターとして、小学校を考えるようになった。運動会など学校行事は、地域の行事ともなり、地域の人々は学校教育活動や施設充実にボランティアとして、協力してきたのだ。行政から教育費でたりなりものを地域の共有の財産や寄附によって、学校の建物や教材などにあてたのだ。
 日本の小学校の教育は、子ども達に読み書き、そろばん、理科、地理、歴史などの基礎的な知識と同時に、生活指導、道徳教育などを大切にしてきた。学校教育では、人格の完成をめざして行われてきたのだ。この人格完成教育として、戦前は、教育勅語が教育内容の基本だった。
 
 日本の伝統的精神と欧米の技術の教育

 教育勅語では、日本の伝統的な精神の儒教的精神を基に、親・夫婦・兄弟姉妹・友人に対する孝行、慈愛の精神を尊重したのだ。そして、学問を怠らず、職業に専念し、知識を養い、公共のために貢献し、忠君愛国の精神を強調したのだ。忠君愛国的な教育は、後に日本の軍国主義体制のなかで積極的に位置づけられていくのだ。このことが、戦後民主主義の教育のなかで、戦前の教育の否定をしたのだ。
 日本の最初の銀行をつくり、経済の発展にリーダーの役割を果たした渋沢栄一(しぶさわ えいいち)は、経済における社会的モラルを重視したのだ。かれは、論語の思想を経済活動のなかで大切にした。公益ということから、経営者の道徳を鋭く追求した人だ。かれは、近代日本の学校教育のなかで、商業教育、福祉教育、女子教育などにも力をいれたのだ。
 日本では私立の専門学校は、民間人の手によって積極的に作られた。1918年の大学の国家政策は、多くの私立の専門学校が法律的に大学になっていった。日本の大学の普及に私立大学が大きな役割を果たしたのだ。それぞえの大学に個性的な精神があるのは、私立の影響によるものである。札幌の官立農学校のように、個性的な専門学校もあった。1918年以前の大学は、帝国大学ということで、国立の東京大学京都大学などだった。国家の人材を養成するためだ。帝国という名前はアジアへの侵略と支配のための大学というイメージがあり、よい名称ではないと思う。
 
 国民皆学確立と複線化

 1890年代は、経済の発展のなかで実業教育が制度化され、中等教育の進学要求も高まり、中等教育の3系統化ができた時期だ。中学校、高等女学校、実業学校という中等教育機関の複線化が1899年の「中学校令」「高等女学校令」「実業」学校令」で制度化した。
 さらに、地方改良運動という地主的生産力的発展ということで、いわゆるサーベル農政の時期に、地方の小学校の合併が行われた。そこでは、校区の財政的基盤になっていた大字の村の林野統一事業などが積極的に展開されていった。そして、このような状況のなかで、学校の効率化、分業化により、複線体系が確立していくのだ。
 中等教育機関の進学要求の高まり、実業学校の発展ということから、各尋常中学校に置かれていた実科が不要ということが文部科学省の認識だった。そして、各府県1校という中学校設置の制度が維持できなくなったのだ。このことにより、普通教育一本のエリート養成の中学校が生まれていくのだ。
 つまり、中学校における職業教育の内容が消えていったのだ。従前の中学校に2つの目的があった。しかし、そのひとつの職業との関係をもっていた教育内容が失われたのだ。中学校は、高等教育へのコースの教育機関として位置づけられた。従前の中学校がもっていた国民大衆教育の性格が失われたのだ。
 1902年に小学校は、90%の就学率になり、1907には義務教育の6年制が確立した。小学校の6年間は同じ教育を受けるが、その後、実業的な教育コースとエリートの教育と、分かれていった。エリートコースには、小学校卒業後に5年制の中学校に進学したのだった。
 
実業・専門学校重視の大衆的教育

 庶民の教育コースは、小学校を利用しての夜間の補習学校、高等小学校として、2年間の普通教育があった。さらに、補習学校は、農業など専門的な教育を夜間に実施したのだ。企業のなかでも学校がつくられたのだ。当時の日本の農村は、寄生的な巨大地主をはじめ農村では半封建的な地主制が拡大した。小作人の貧困化も農村の商品経済の浸透とともに厳しいものになっていった。貧困化していく小作人は、女子を中心に繊維関係などの低賃金労働者として排出していく。戦前の農村は、地主と小作人という厳しい関係があったが、同時に農村における自立的な自営層の商業的生産の動きもあったことを見落としてはならない。
 ところで、農村から供給される女子労働者層にたいする教育も大きな課題になっていくのだった。伝統的な織物業の工場では、工場制生産が振興していくことによって、粗製乱造の製品が市場に出回った。産地としての品質の維持も大きな課題になっていくのだ。そこでは、労働力の質が大きな問題になっていくのだ。農村からの労働力は、出稼ぎ労働者ということから寄宿舎生活を強いられていく。教養を身につけて生活や労働規範をたかめ、職場の秩序や技術の向上による生産意欲を高めることが必要になっていく。
 長崎の三菱造船所では、1899年に三菱工業予備学校を工場付近に設立した。工業応用の知識を開発し、将来の熟練技術労働者を養成するためであったのだ。年齢は満10才以上で尋常小学校卒業者又はその学力のあるものを試験のうえ入学させた。修業年限を5年として授業料は徴収しなかったのだ。
 労働者自らが幼年工講習所設立の要望をしていったのが、日本鉄道大宮工場にみることができる。大宮工場は、職工養成の制度はなく、熟練工は一般に募集して確保していた。1900年4月に本格的な職工養成機関の設置を労働者の有志は経営側に要求している。大宮工場で技能工養成が制度化されたのは、1902年10月に養成期間3年の職工見習い養成がはじまりだ。
 日立製作所の前進である久原鉱山電気修理工場は、1910年に徒弟養成所を工場内に設けた。講義を交えて組織的な技能工養成をはじめたのだ。八幡製鉄所は、1910年に幼年職工養成所を設置した。高等小学校卒を選抜採用して職工養成をしたのだ。 これらの工場内の教育では、職業的な訓練ばかりではなく、基礎的な科学的知識や教養を学んでいった。日本の大衆的な学校の発展は、地域や企業内で積極的に行われたのが特徴だ。大衆的な教育は、実際の生活や生産と結びついて教えられたのだ。
 
 職業的な専門学校と地方の振興

 職業的な中等専門学校として、農学校や工業学校が生まれた。それらの学校は、日常的な生活単位の地域のリーダーを養成する学校になった。地域での産業振興における職業的な専門中等学校は、大きな役割を果たしたのだ。
 地方では、農業、工業、商業、医療などの高度な専門学校が発達した。戦前までは大学にならなかったのだ。これらの高度な専門学校は、1945年以降の戦後に、連合してひとつの県にひとつの総合大学の理念になっていく。実際はすべての県で総合大学の実現があったわけではない。
 それは、エリートコースの教育のように社会的地位を得るための学歴ではなく、いいものをつくるため、あたらしいものをつくるため、生活を豊かに、地域を発展させるため、人間関係や社会的モラルを確立していくための学びだった。日本の労働者、農民、経営者などが勤労意欲と創造性をもってきたのは、教育の成果が大きいのだ。

 不平等条約の完全撤廃

 日本は、1912年に自ら国として貿易の税金がかけられるようになった。1858年の不平等条約は完全に撤廃された。しかし、日本が明治維新以来進めてきた富国強兵がアジア諸国と友好を結んで共に発展していく道をとらなかったのだ。帝国主義的に膨張政策をとったのだ。朝鮮半島や台湾の植民化はその典型だ。
 民族的な誇りの教育が、民族の独立精神からアジア民族を抑圧するための帝国主義的な教育になる。自国民族絶対主義に変わっていくのだ。ベトナムのドンズー運動などを十分に支援することができなかったのも、このためだ。
 1910年代の日本資本主義の急激な発展は、半封建的な日本社会の矛盾を人々にはっきりさせた。労働争議や小作争議が急増した。1918年には米騒動が全国的に起き、地主制と米の流通機構の矛盾がでたのだ。1919年には、植民支配に対する朝鮮の人々の民族独立万歳示威運動、3.1事件が起きた。
 米騒動は、工場のストライキとも連動した。のべ一千万以上の国民が参加するという騒動になったのだ。日本の労働者、農民、勤労市民の運動や朝鮮の民衆に対して、軍隊の出動という最悪の事態となって、治安が回復しいく。これらの騒動の発端は、米価の急騰だった。
 
 大正デモクラシーと民衆の教育運動

 大正時代に、日本の文化人・知識人をはじとして、デモクラシーの運動が起きた。米騒動が収まった以降も労働争議は終わらなかったのだ。1919年以降、足尾鉱山、川崎造船所、東京印刷、東京市電、八幡製鉄など大争議が続いていく。そこでは、軍隊出動という事態になる。そして、1922年に労働組合総連合が生まれ、同じ年に日本農民組合が創立される。
 第1次世界大戦以降に日本の社会は大きく変化していくのだ。重化学工業発展などの産業の再編成も起きている。
 教育の世界でも自由教育の動きが活発になり、仏教的な内なる自立の精神を基礎にして、自学主義、自発主義によって、教室外、実際生活をとおしての教育実践を重視し、私立の成蹊実務学校が1912年に生まれた。
 そして、1914年に中学校、1915年に小学校、1917年に実業専門学校・女学校、1922年に7年制高等学校を確立し、成蹊学園となる。
 実際的教育学を提唱した元文部官僚・前京都大学総長の沢柳太郎の提唱により、1917年に成城学校が生まれる。その学校は、児童中心の個性尊重の教育、自然と親しむ教育、心情の教育・鑑賞教育、科学的研究を基とする教育の実験学校だった。成城小学校は、多くのユニークな教師達を集める。成城小学校の指導主事として1917年に招かれた鹿児島県出身の小原国芳は、全人教育論を展開して玉川学園を1929年に創設する。
 1920年前後に北原白秋など多数の芸術家・詩人による児童文芸雑誌の「赤い鳥」の出版活動は児童中心の教育活動や注入的な画一教育の克服に大きな影響を与える。
 1924年には東京池袋に下中弥三郎などの教育の世紀による児童の生活の場として、自由教育をめざす児童の村小学校私立が誕生した。

 生活主義の新教育運動

 生活綴り方教育は、生活主義的な新教育と結んで発展していく。生活綴り方の教育運動は、子ども達の発達をみていくうえで、子どものおかれた生活状況が大切ということで、生活をありのままに表現させていく教育の方法として、各地に広まっていくのだ。
 教員も1919年に自己確立のために日本教員組合啓明会という組織をつくり、教育の民衆化が教員の自主的な運動として行われていく。
 1921年には羽仁もと子が「自活自労」の7年制女学校をつくる。日常生活に必要なものを自分で生産する教育を展開した。実際生活に遊離した当時の学校教育を批判して、女性地位向上のうえで教育の大切さを力説したのである。
 
 人道的経営者の大原孫三郎

 紡績業の発展で大きな富を持った倉敷紡績・倉敷絹織の経営者である大原孫三朗は、企業経営者の社会的貢献・社会的責任として、教育活動、文化活動、研究活動のための施設をつくっていく。田畑100町歩をもち、地域農業発展のために、岡山特産の葡萄や桃の改良のための実地研究や世界的な農業関連の文献収集を行う大原農業研究所(後に岡山大学に移管)を1914年に創立した。
 社会問題の克服をめざしての調査研究機関としての1919年に、大原社会問題研究所を創立した。マルクスの関係文献の翻訳、森戸辰雄など日本の進歩的な若手研究者が育っていく。1921年に、労働の医学的、心理学的研究を専門に行う労働労働科学研究所を創立する。1922年に、社会に平等に解放された倉敷中央病院を設立する。石井十次の岡山孤児院の支援する。さらに、倉敷に大原美術館を設置して、市民の芸術文化鑑賞活動の拠点をつくったのだ。このように、企業の経営者が社会的貢献や社会的責任として、利益の一部を社会に積極的に還元して、公益性を担おうとしたとは大正時代の一つの動きだった。
 
 大正時代の教育改革

 大正期は政府において、教育改造の動きは大きな課題になっていく。政府は臨時教育会議を1917年に内閣直属の教育諮問会議を設置した。その審議会の目的は、教育の抜本的な改革のため、重要事項の調査や審議だった。そこには、教育に関する答申や独自の建議を求めたのだ。1年半にわたって審議を重ね、小学教育、高等普通教育、大学・専門教育、師範教育、視学制度、女子教育、実業教育、通俗教育、学位制度など9領域、12の答申を行ったのだ。
 小学教育に関して「市町村義務教育費国庫負支弁」が答申されて、国庫負担法が、1918年に法律になった。小学校教員の俸給に対して費用の一部と市町村に国庫負担する法だ。父兄の貧富と町村の貧富に拘わらず国民の義務教育であるということで、国庫の負担において最低限の教育を保障しようとするものである。国庫負担は、教員の俸給に半額、市町村に半額として、とくに、資力貧弱なる町村に特別に交付金を増加したのである。

日本ファッシズム化と教育

 1927年の金融恐慌、1929年の世界大恐慌は、半封建的構造をもっていた農村は、深刻な状況に見舞われた。1920年代は日本資本主義の発展による社会経済構造の矛盾が現れたのだ。日本の経済の支配的地位にあった巨大な鈴木商店は倒産した。
 重化学工業は、軍事部門を中心にして発展してきたが、大正期に国民的生産の織物業なども機械的工場生産に移行した。日本の産業段階も国民的経済の面からも機械制工場生産への移行に入っていくのだ。
 しかしながら、半封建的な農村構造に支えられている労働力の低賃金構造は変わらず、地方の織物工場資本の蓄積が再び、地主的土地所有の集積をもっていくのだ。つまり、封建的な束縛かに縛られて、近代的な工場生産の発展の限界をもっていたのでです。
 地方経済を地域のなかで自立的に発展させていくという自作農的上層運動としての織物業などの機械制工場の展開がみられていく。農家の副業としての農村工業の発展も新たな展開をとげていく。しかし、自由なる農家経済の発展は十分に展開されていかなかったのだ。全般的に農家経済は非常に厳しい生活にたたされたのだ。
 1930年代は、大恐慌というなかで、全面的な社会変革の必然性をもたらした。とくに、半封建的な農村構造の矛盾である地主制の廃止の問題が社会的な問題となっていく。自作農創設施策を部分的に実施した。それは、地主制の矛盾をやわらげようとするものだった。さらに、農村更正運動として、農民の自立的な経済活動を刺激していく施策を政府はとった。
 しかし、根本的な半封建的な矛盾構造である地主制の問題や古い形態を残した雇用形態、財閥制度は改革することはできなかったのだ。絶対主義的な国家機構は強く残存した。社会の矛盾構造から自由性と民主化を促すことができなかったのだ。人々の自立的経済活動を促進する施策を十分に展開できなかったのだ。そして、矛盾を海外の侵略活動にむけていくのだ。 
 尾高豊作や小田内道敏などは、学校教育と郷土の地域社会との乖離が著しい現状を憂いて、1930年に郷土教育連盟を結成した。子どもの成育における郷土教材の役割を重視した。この郷土教育の運動は、農村の厳しい生活の現実を意識しながら、教育によって地域の自立的更正運動をたかめようとしたものである。
 農村不況のなかで、村づくりの中堅的人材を養成していこうとする塾風教育という農民教育運動が展開された。山崎延べ吉は塾を1929年につくり、各地の農民道場づくりに影響をあたえる。加藤完治は、山形自治講習所の農民研修所を運営していたが、それを1933に廃止して、県立の国民高等学校にしていく。他の民間の農民道場と異なり、学校制度のなかに組み入れて行く。国家有用な人材としての農民道が教育で重視されたのだ。国家主義農本主義の農民教育運動は、デンマーク国民学校をもモデルにしたが、自分たちが暮らしてきた地域での農民自立や農民福祉に結びつかず、国家主義的出世主義や海外侵略の開拓団につながり、ファシズムの社会的基盤になっていくのだった。

 軍国主義化での生活と科学主義の運動

 1933年城戸幡太郎などによって、創刊された雑誌「教育」は、生活主義、科学主義を大切にする教育運動だった。この教育科学研究会に結集した教育学者は、戦後の民主化のなかで日本のあたらしい教育理論をリードするメンバーになる。
 1931年に満州事変がはじまり、日本の軍国主義的国家体制は、中国への全面的な侵略を強めて行く。1935年の青年学校令の公布され、国民総動員の軍人教育の体制をつくって行く。1937年に国民精神総動員実施要項がだされ、教育機関を総動員してのファシズム化を押し進めて行くのだ。
 これは、大正デモクラシーを経て、国民の自由主義、民主主義、社会主義、労働運動、小作争議、社会的運動に対して、国民的に、網の目のごとく取り締まっていく思想動員体制だった。侵略戦争への国民の参加エネルギーを最大限に引き出そうとするものである。日本農民の窮乏化のなかで、農本主義的思想を軍国主義へと編成したのだ。
 ファシズム体制のなかで、地域や企業で経済活動や地域づくりとの関係で青年学校の存在があったのだ。地域や企業内で継続的に展開されてきた実業補習学校の伝統、普通教育、職業教育、訓育活動などが青年学校がつくられていくなかでも大きく反映しているのだ。この教育活動のエネルギーは、ファシズム的な日本軍国主義が敗北した1945年以降に、戦後の日本経済再建と発展、新たな地域づくりと結びついた教育活動に継続していくのだ。

 戦後の復興期の教育

 1945年は日本の新しい歴史のはじまりだ。日本の軍国主義ファシズムが敗北したのだ。戦前での民主主義的な活動は、自由になり、国民の新たなエネルギーが結集された。農村では、農地改革が実施され、小作争議は不要なものとなった。農民は自分の能力を生かして、努力すれば生活が豊かになった。封建的な労働慣行もなかくなり、日本の民主主義は様々な分野で進んだ。
 終戦直後は,空襲などによって親を失った多くの子どもが浮浪児として東京にあふれていた。戦災孤児問題が深刻な社会問題であったのである。子どもをめぐる問題は絶対的貧困状況の児童福祉の問題,年少労働保護行政が大きな地位を占めていた。1947年4月から戦後の9年制の義務教育がはじまるが,校舎や施設は極めて貧弱であり,教員不足も深刻であった。2部授業もあり,学級はすしづめ教室であった。
 戦争の傷痕は,絶大なるものがあり,荒廃した国土のなかでの国民は戦争からの開放観をもつ。そして一方に食糧不足が襲うのである。国民的生産力の崩壊から経済の出発であった。
 このようななかで,軍国主義体制の解体,農地改革,労働三権の確立が行われ,労働運動と農民運動などの民衆運動が高まっていく。
 この民主化運動や戦後復興の活力に支えられて,教育の世界でも様々な民主化施策が打ち出されていく。つまり,侵略戦争軍国主義の反省のうえにたって,新しい平和と民主主義の教育がはじまる。そして,教育の民主的な制度として教育委員会の公選制,コア・カリキュラム,地域総合制の高校など様々な民主化のための教育政策・活動がおこなわれていくのである。
 
 荒廃した国土の短期回復

 日本経済は,戦後10年にして戦前水準を回復した。戦後の荒廃から予想外の短期間の達成である。
戦争によって破戒された国土は、10年間で完全に回復し、戦前の生産力水準は、完全に回復した。農村では史上最高の生産力になるのだ。戦後の10年間は、日本の新しい社会をつくる大きな飛躍だった。
 義務教育の9年制が確立し、高等学校も生活している地域に生まれた。高度な専門学校が大学となり、すべての県で国立大学が生まれた。大学の大幅な増加になった。多くの国民が大学に入学できることを可能にしたのである。大学の大衆化が、本格化するのは、高度経済成長を待たねばならなかった。
 1950年代の後半には,白黒テレビ,電気冷蔵庫,電気洗濯機が普及しはじめ,1965年には,それが100 %近くに達する。1961年にレジャーブームが起き,マイカ-が400 万台を突破した。TVも1000万台を越えた。60年代後半は,3C時代として自動車,クーラー,カラ-テレビの大型耐久消費財が各家庭に普及して,大量消費社会の時代に入っていくのである。1967年には,交通事故が1万人を超す。

 高度経済成長の矛盾

  高度経済成長は、子どもの人格的な発達をおろそかにしていった。子どもと親の関係においても小子化現象のなかでの過保護と放任が生まれていく。放任のなかでの子どもへの溺愛現象が経済的な関係のみによってのみ充足させるということが起きる。親子をめぐる精神的な貧困化現象が起きていくのだ。
 共稼ぎ家庭の増大に伴う子育ての社会システムの貧困ということでの子どもの問題状況がみられてきていく。また,父親の長時間労働という会社人間化という大きなマイナス面があり,困難をかかえている母親への地域の支援システムがないなかで、母親のみの孤独な子育てが増えていく。子育ノイローゼによる子どもの虐待問題も起きていく。
 高度経済成長は,重化学工業コンビナートを中心としたものだった。重化学工業地帯では,子どもをはじめとして深刻な大気汚染の公害によるゼンソク問題が起きる。川崎ゼンソク,四日市ゼンソクと呼ばれる問題だ。さらに,自動車の排気ガスによる大都市の大気汚染は深刻になっていく。
 全国各地に高度経済成長の弊害による公害問題が起きる。60年代後半に公害問題を克服していく住民運動が活発化していく。小学校や中学校のプレハブ教室,大規模の学校など、矛盾も深刻になっていく。

 子ども文化の商品化

 大量消費社会のなかで,子どもの伝統行事や子育て慣行等の地域社会の文化が消えていったのも大きな特徴だ。それは,地域文化や民族的な文化の喪失過程でもある。とくに,農村から都市への人口の流失と大都市への過密化・ドーナツ化現象は,伝統的な地域文化を軽視していく。あたらしいおもちゃがもてはやされ,子どもの生活もマスコミなどによってつくられる流行に左右されていったのだ。子どもの遊びや文化は商品化していったのだ。おもちゃが高級化して,子どもが商品化されたおもちゃづけになっていく。また,マスコミのキャラクタ-の玩具が子どもの人気ものになっていく。子どもの食べ物の嗜好もテレビのコマ-シャルに成っていく。まさに,子どもの生活や文化が大きな商品市場として利潤の対象となっていくのだ。子どもが商品市場の大きなターゲットになっていくことも日本の高度経済成長期における大量消費社会の特徴だ。
絶対的貧困のなかで育った親たちにとって,子どもに豊かなものを与えてやりたいということが,大量消費の論理で進んでいくのである。
 大量消費社会のなかでの享楽的消費文化は子どもの遊びの商品化,子どもの生活における金銭問題が大きく左右していく。大量消費の社会における変化のなかで,子どもの独自の遊び世界などに経済的な商品化の問題状況が入っていくのである。
 大量消費社会のなかでマスコミのもっている刺激的な享楽文化も無視することができない。子どもの地域生活が崩れているなかでは,マスコミの影響が純粋培養的に入りこんでいく。子どもの文化がマスコミによって誘導操作されていくこともある。

 高学歴化現象

 戦後の学校教育の発展は,新制中学校の発足による義務教育の9年間確立と高校の就学率が95%を超え,準義務制的になったことである。高等教育機関も著しい発達をとげ,高等学校の卒業者のうち大学・短大等の進学率は,30%を超えるようになっている。(1975年34.2%,90年30.6%,94年36.0%)。
 1950年当時の高等学校の進学率は,42.5%と半数にも満たなかったのである。高等学校卒業者の大学等の進学率は,この50年当時にも30.3%となっていたが,高校への進学率が低かったため,同一年齢世代の大学進学率は低い状況であった。高校への進学率の急速な上昇にともなって,高校卒業者の大学の進学率は低下し,1960年は17.2%となる。60年以降,日本の経済成長にともなって75年まで大学への進学率は急速に増大していく。子ども学習権保障の発達として高校進学率の90%以上の上昇は画期的なことである。しかしながら,高校卒業者の約3分の1が大学等の進学ということは,75年以降20年間変化がみられないが,大学等の進学に大きく高校教育がひきまわされている。高等学校が準義務教育化という大衆化したなかで,大学等までの受験競争の論理が学校教育のなかに支配しているのである。この高等学校の95%以上の進学率と大学等の進学率の上昇が国民の進学競争への激化となっていくのである。

 高学歴化の矛盾

 高度経済成長は,高校の進学率を上昇させ,大学の大衆化を促進していった。これは,社会の科学技術の大衆化,一般大衆の知的・文化的能力の向上としての可能性をもったことだ。大学の大衆化の過程は,同一の教育内容と価値基準による競争という偏差値教育と学校の格差づけによって学歴志向の問題が学校歴と重なっていっていくのだ。学校間のラベルが一層重要になって学校名の権威獲得競争が行われていく。高校の準義務教育化のなかで,学校間の権威的序列競争が一層に激しくなっていく。受験競争の激化,輪切りによる学校間格差,教育の画一性をもたらした。学校をとおしての立身出世主義の大衆化として教育をめぐる矛盾が増大していったのだ。
 子どもの受験競争は低年齢化していくことによって,子どもの発達過程における他者との関係が競争との関係でみるようになり,子どもの遊び仲間集団などで作られていく子ども本来の社会化していく協同や連帯の精神との矛盾関係が起きていく。高度経済成長のなかで,この子どもの矛盾関係が促進していくのだ。
 「学力差」による差別・選別の教育が行われ,高校教育での中退者が大量に現れている。中退者は,社会的な不安定労働力市場に動員されている。学校教育のおちこぼれ現象が貧困層をつくりだしていく。学校教育の失敗が人生の失敗という現象がみられていく。
 中退等にみられるように学校教育での差別・選別を受けたものが貧困層をつくりだしていく。これらの層は労働意欲や生活意欲の問題とも絡んでいく。
 
日本のエリート層の退廃

 日本のパワーエリ-トの層はいわゆる有名大学出が多く,様々な汚職の疑獄事件をおこし,官僚,政治家,企業のトップも社会的な問題を起こしてきたことはいうまでもない。また,バブルの時期には,様々な金銭をめぐっての頽廃,無計画な開発,土地取引がおこなわれ,莫大な不良債権をつくり長期の経済的不況の原因をつくったが,これをひきおこした多くもエリ-ト大学をでた人たちである。
 立身出世主義にのぼりつめた層の退廃もみられるのである。また,オウム事件にみられるように、日本の将来を担う若いエリート大学の出身者が、盲目的絶対権威の宗祖による社会的破壊活動に科学技術が利用されていった。大学の教育が問われたのだ。
 日本の経済発展は、国家の財政施策と密接に結びつき,金権という政治の汚職・社会的退廃をもたらし,子どもの道徳形成にとって大きなマイナスを与えていった。政治的退廃は子どもからの社会的リーダ層への不信を大きくしていったのだ。
 80年代後半は,異常なバブル経済に日本社会は酔いしれ,株,土地,為替,先物取引などの投機的分野に資本投資が膨大に流れ,金銭をめぐっての様々な社会的な退廃状況が噴出した。証券スキャンダル,銀行の不法貸し付け,不法投棄,銀行・信用組合等の大量の不良債権など信用機関の不祥事が目立ったのである。これは,日本を支配する金融・信用部門のばくち的な投機の横行であり,社会的な退廃の深刻性を示すものである。さらに,政治や行政の責任を担うトップエリ-ト層が、ロキ-ド事件,リクルート事件,佐川宅配便事件というスキャンダルを起こしていったことは,未来を担う子どもたちに重大な道徳的なマイナス面を与えたのである。

企業モラルの問い

 バブル崩壊の92年以降、長引く不況は,投機的な資本投資の問題が明らかになり,社会的にもバブル経済の問題点が露呈した。この反省として,社会的に新しい価値観の問いかけが生まれている。証券不祥事事件を契機にして1991年10月に経団連企業行動憲章として,企業の社会的役割を果たす7つの原則が次のようにだされた。


「1.社会的に有用な優れた財・サ-ビスの供給に勤める。2.社員のゆとりと豊かさの実現に務め,社員の人間性を尊重する。3.環境保全に配慮した企業活動を行う。4.フィランソロピー活動を通じて,積極的に社会的貢献に努める。5.事業活動をつうじて,地域社会の福祉の向上に努める。6.社会の秩序や安全に悪影響を与える団体の活動に関わるなど,社会的常識に反する行為は断固として行わない。7.広報・公聴活動等を通じて常に消費者・生活者とのコミュニケ-ションを図り,企業の行動原理が社会的常識と整合するように努める」。

 この企業憲章は利潤第一主義的傾向,なりふりかまわずの規模拡大志向を企業側から倫理的にコントロ-ルするうえで大きな社会的圧力の降下をもっていく。60年代の経済成長第一優先の時代は,規模拡大することが企業の支配的論理であり,公害防止の問題は軽視されていたのである。それが,90年代の現代は,環境保護のビジネスは,新たな期待される産業として大きな脚光をあびるほどになっている。社会のために役にたち,そして,企業の採算の基盤もなりたたせようとするモラルも生まれた。

 豊かになった日本の学校矛盾

 日本は経済の大国になったことによって、創造的なものづくり人間から大量に消費する人間社会にかわった。工業学校や理科教育などの人気が落ちていった。現在、日本では子どもの理科離れが深刻になった。
 現実の労働との関係で教育をしていこうとする傾向が弱くなっている。定職に就かずに、フリーターということで臨時的に働く青年が200万以上と増大し、また、小学生や中学生など学校に行かない子どもが13万人と増えている。
 楽をして、安定した収入を得たいという傾向も強まっている。労働の現場に結びつく仕事をきついということで、やりたがらない青年が増えている。
 学校の教師も一般公務員よりも給料がいいこともあって、教員になるための採用試験も難しくなている。子どもの問題行動も消費社会のなかで様々な問題が生まれている。

 矛盾克服の運動

 60年代後半に、社会の矛盾の解決に住民自らが立ち上がって国・自治体に企業に要求していったのだ。高度経済成長の歪みの克服施策や公害防止,福祉を重視する住民自治によってシビル・ミニマム論が自治体で確立していくのだ。ここに,住民参加による地域民主主義の確立の意識が成長していくのだ。多くの自治体に、社会党共産党・市民団体などによる、いわゆる革新自治体が誕生する。
 高度経済成長期は,アメリカのベトナム侵略が激しくなっていった。沖縄をはじめ日本のアメリカ軍基地によってベトナム侵略戦争が遂行されたことから,その平和運動が大きく盛り上がったのだ。
 以上のように,高度経済成長期は,国民の権利獲得運動,平和と民主主義の運動が高まったことにより,子どもの世界においても,その影響は大きかったのだ。
 学校教育で落ちこぼれて、労働意欲を失って若者を、学校教育以外での優れた中小企業経営者の人間的な触れ合いによって,成長していくことがあることを重視しなければならない。企業の教育力によってあらたな人間的な成長をとげている若者が数多くいたのだ。
 全国で約4万の会員をもつ中小企業家同友会全国協議会の1993年の定時総会では21世紀型中小企業として「自社の社会的使命を自覚し,国民と地域社会からの信頼や期待に高い水準で応えられる企業,社員の総意や自主性が十分に発揮され,労使が共に育ちあい,活力に満ちた豊かな人間集団を築く企業こそが,未来に向けて発展を続けうる企業であること」というように企業での人間的な育ちあいの実践事例が数多く生まれてきていることだ。共に育つということが学校教育ではなく,学校教育ではじきだされた青年が中小企業で知的教養や技術をみにつけ人間的に成長しているのだ。学校教育の失敗は決して人生ではないことを中小企業家同友会の実践は示しているのだ。
 また,働くものが出資して共同で経営する新しい企業として,労働者協同組合が生まれている。それは,1990年に本格的に展開していく。92年に労働者協同組合の原則が確認され,労働者が企業の主人公になる労働と教育を基礎に自立と協同と愛の人間的成長の経営を目標とする企業体が生まれたのだ。
 このような企業のなかで共に育つ企業が社会的に増えていくことによって,子どもの進路問題にあららしい見方が生まれているのだ。
 企業の社会的貢献・モラル,豊かさの問いかけ,競争から共生社会の問いかけ,住民自身による地域の様々な共同事業,自治体への住民参加など大きな関心になっていく。子育てについても地域の協同化運動が各地で起き,教師の体罰,学校の校則問題,内申書による生徒管理問題等学校をめぐる子どもの人権を守る父母の住民運動も発展してきている。これは,学校の閉鎖性を克服し,父母の学校参加の道を開く運動として大きな意味をもった。
 そして,地域からの教育改革として,校区ごとにつくられた地域教育会議の実践は教育における地方自治を生活圏レベルの校区で定着しようとする貴重なものである。教師と父母による子育て・教育の協同の市民運動が展開されていくのであす。
 日本の国際化は教育改革に新たな視点を国民に与えている。円高のなかで日本の生産拠点がアジアなど世界各地に移転していく。このことは,日本においてアジアなど世界がより身近かな問題として国民の前に明らかになっていく。そして,世界との教育の比較も可能になっていく。
 労働との関係で子どもの教育をしていこうと、農業体験学習や農村に子どもを留学させる試みもはじめている。農業や農村の教育の役割があらためて注目されているのだ。大学生や青年達が発展途上国にでかけて生活体験することは大きな価値観の転換になっている。
 高学歴化のなかで若者の創造的能力は高まっている。社会のなかで役にたちたいということで、ボランティア活動する青年も増えている。ベトナムとの交流は、現代日本の消費社会から、教育の矛盾を解決する道を与える思う。
 

 高学歴化の進歩性

 国民皆学制・教育の機会均等の近代学校が資本主義の形成発展のなかで生まれてきた文明史的役割と,それが資本主義的な競争による能力主義や資本主義的な合理性になっていったことによる様々な矛盾とは別だ。今後の展望として資本主義的競争矛盾の解決の展望をめざし,近代学校の市民協同性としての学習権の実質的な構築の創造が求められている。
 ここには,資本主義的な競争や合理性への社会権的な制度のひとつとしての学校の民主的な制度改革の課題がある。子どもの社会のいじめ問題という深刻な問題があるが、受験競争のなかで傷ついてきた子どもたちが,一方ではひとの心のやさしさに敏感になっていることも見逃せないことだ。矛盾のなかで、あらたな進歩性が潜んでいるのだ。
 高学歴化の現象は,科学の大衆化として人びとの教養や専門的な能力を高めていく。社会的な知的・文化的能力の向上として,社会の発展に大いに寄与しているのだ。
 戦後の日本社会の発展にとって,軍国主義的な体制が一掃されたことは大きな歴史的進歩である。大学等の高等教育機関が軍事研究との関係をもたず,民間の研究機関も民需との関係で商品開発を積極的に行ったことが日本の戦後の特徴だ。科学技術開発における平和主義と民需の製品開発という論理が基本であったのだ。
 軍事的優位にたつためには,コストを度外視して,一刻も早く軍事的開発を行うが、市場をとおして民需のための商品開発は,消費者を意識しての科学技術開発になる。日本では科学技術が民需のために大衆むけの商品開発に利用されて,経済成長に貢献していくという構造であったのだ。
 民需の部門に科学技術が発展し,大衆むけの商品開発が様々な分野で行わたのだ。それが,中小企業までも含めて全国いたるところで絶え間ない商品開発・市場開発を行ってきたのが戦後の特徴だった。これを支えてきたのが高学歴化現象のなかでの国民的な教養や専門家の形成だ。
 日本の経済成長をなしとげてきたのは,国民の勤勉性と同時に,民需を中心にした科学技術力の進歩,高度の技術を商品化していく創造性にあったのだ。高学歴化は,中小企業を含めての広範な商品開発・市場開発を可能にしたのだ。多くの中小企業が、後に国際的な企業に成長していったのだ。
 60年代後半から70年代に全国各地におきた公害問題の住民運動は,新たな公害防止産業をつくりあげていったのだ。現代のゴミ問題やリサイクル問題などでもあらたな環境にやさしいエコビジネス産業をつくりだしている。この様々な社会的矛盾に対して,それを克服していくあたらしい産業が生まれていくのだ。この国民の活力や創造性は,国民的な教養性と、専門的開発の能力が国民的規模に広範にあることで、日本社会の強い進歩性があるのだ。
 企業内での教育力も日本の高度な商品開発や品質を高めいったことに、大きな役割を果す。この企業内教育も学校教育での基礎的な能力形成のうえに展開しているのだ。戦後の大学において,広範な学生が社会進歩を求めて学生運動をしたことは,それぞれ卒業していった学生たちが自己の専門分野で社会のモラルを機能させ,日本の社会進歩に大きな役割を果たした。人権や社会福祉を発展させ,社会的に民主主義を形成していく力になっているのだった。

戦後の廃墟からなぜ日本は発展できたか。それは、学び・Tại sao Nhật Bản có thể phát triển từ đống đổ nát sau chiến tranh? Nó đang học.

Tại sao Nhật Bản có thể phát triển từ đống đổ nát sau chiến tranh? Nó đang học.

Nhật Bản đổ nát ngay sau thất bại

 Các quả bom nguyên tử đã được ném xuống Hiroshima và Nagasaki trong Thế chiến thứ hai, và Tokyo, Osaka, Nagoya, Kobe và Kagoshima đã bị các cuộc không kích tàn phá. Thiệt hại được cho là tồi tệ nhất trong lịch sử thế giới.
Sau chiến tranh, người dân Nhật Bản đã mất tất cả. Anh vừa trỗi dậy từ đống đổ nát. Nhật Bản đã bị hủy hoại, nhưng một trái tim giàu có vẫn còn. Người dân có động cơ học tập cao, vì vậy họ có ước mơ và hy vọng lớn. Kể từ thời Minh Trị Duy Tân ở Nhật Bản, việc học tập đã lan rộng khắp cả nước, tạo ra một môi trường văn hóa mà mọi người đều được học và hệ thống giáo dục đã phát triển vượt bậc.
Sau chiến tranh, các trường đại học quốc gia mới được thành lập ở tất cả các tỉnh. Các trường dạy nghề trước chiến tranh đã trở thành trường đại học. Mặc dù họ nghèo về vật chất trong đống đổ nát, nhưng họ đã xây dựng một ngôi trường khắp nơi. Đặc biệt, ông tập trung vào giáo dục nghề nghiệp và giáo dục nghệ thuật tự do.
Các trường trung học phổ thông, trung học cơ sở và tiểu học cũng đã cải thiện hệ thống giáo dục của họ trong thời đại mới. Đến năm 1970, hầu hết học sinh đang học trung học. Bằng sự học hỏi, ông đã xây dựng lại đất nước điêu tàn. Đồng thời, một phong trào toàn quốc được tích cực phát triển để thực hiện dân chủ. Giữa đống đổ nát, người Nhật nung nấu ý tưởng tạo dựng một xã hội mới. Các liên đoàn lao động, hiệp hội nông dân, hợp tác xã nông nghiệp, đoàn thanh niên, hiệp hội phụ nữ, hiệp hội doanh nghiệp nhỏ, tổ chức kinh tế, v.v. sẽ tích cực phát triển các hoạt động giáo dục trong cộng đồng và nơi làm việc với niềm tin rằng làm việc chăm chỉ sẽ dẫn đến thịnh vượng.

 Học tập sản xuất nông thôn

Giáo dục của người dân không chỉ giới hạn trong giáo dục ở trường, mà còn là tạo ra một xã hội Nhật Bản thịnh vượng từ sự tàn phá. Với việc bãi bỏ hệ thống địa chủ, động lực sản xuất của nông dân tăng lên rất nhiều. Trước chiến tranh, Nhật Bản duy trì nguồn cung cấp lương thực thông qua các thuộc địa. Với thất bại trong chiến tranh, các thuộc địa biến mất và tình trạng thiếu lương thực ở Nhật Bản ngay sau khi chiến tranh kết thúc là nghiêm trọng. Ngay cả trong đống đổ nát của Tokyo, những cánh đồng ở khắp mọi nơi. Quảng trường trước tòa nhà quốc hội cũng bị biến thành cánh đồng.
Tôi lớn lên ở Tokyo, nhưng khi tôi còn trẻ, tôi có khoảng 100 con gà cũng như một trang trại. Đối với trẻ em, bữa trưa ở trường là sự thỏa mãn cơn đói quan trọng. Gần tháp Tokyo, ngay giữa thủ đô Tokyo, mọi người đều không có thức ăn. Đồng thời với công việc tái thiết, việc đi đến vùng ngoại ô Tokyo để mua thực phẩm là một công việc quan trọng.
Sau chiến tranh, Nhật Bản sẽ tự túc được lương thực chính là gạo trong 10 năm. Động lực sản xuất của nông dân sẽ vượt xa mức sản lượng nông nghiệp trước chiến tranh. Những người trẻ lần lượt phát minh và phát triển các phương thức sản xuất mới về mặt học tập sản xuất ở nhiều nơi.
Tôi sinh năm 1944, nhưng khi còn học lớp dưới tiểu học, hầu như ngày nào tôi cũng bị bắt làm vườn trường. Công việc thực địa thường bị dừng lại vì bom được chôn ở đây đó. Các lớp học được chia thành hai lớp, một buổi sáng và một buổi chiều, do thiếu trường lớp. Ngay cả ở những lớp dưới của trường tiểu học, họ đã bị buộc phải làm việc trên cánh đồng. Tất cả mọi người tin tưởng vào tương lai của ngày mai và làm việc chăm chỉ. Tuy nhiên, ở những lớp trên của tiểu học, cuộc sống học tập và vui chơi của trẻ trở nên chậm lại.

Một công ty dẫn đầu nền kinh tế Nhật Bản sau chiến tranh

 


Nhiều công ty dẫn đầu sự phát triển kinh tế sau chiến tranh của Nhật Bản bắt đầu từ những nhà máy nhỏ và trở thành những công ty tầm cỡ thế giới. Sony được thành lập vào năm 1946. Mọi chuyện bắt đầu trong một căn phòng trên tầng ba của cửa hàng bách hóa Shirokiya ở Tokyo. Cửa hàng bách hóa Shirokiya vẫn sống sót sau các cuộc không kích. Tuy nhiên, bê tông xung quanh tòa nhà bị nứt, và đó là một căn phòng thô sơ, lộng gió và không có cửa sổ.
Masaru Ibuka và những người khác treo bảng hiệu công ty đã chờ đợi từ lâu. Mục đích là thành lập một công ty và sử dụng công nghệ của chúng tôi để giúp đỡ thế giới. Nhưng thành thật mà nói, tôi không biết bắt đầu từ đâu. Mặc dù Ibuka đã sử dụng tiền tiết kiệm của mình để trả lương đầu tiên cho mọi người, nhưng anh ấy phải làm gì đó để duy trì sự tồn tại của công ty. Đó là lúc tôi nảy ra ý định sửa chữa, tu sửa máy bộ đàm. Sau khi sửa đài, phòng thí nghiệm nghiên cứu làm nồi cơm điện. Đó là một công ty nhỏ khoảng 20 người.
Ibuka đã nghĩ ra chiếc "Electric Zabuton" bán rất chạy. Ibuka cũng quyết tâm làm một chiếc máy ghi âm bằng mọi giá. Chiếc máy ghi âm này là một mặt hàng có giá trị vừa được sản xuất tại Mỹ. Chúng tôi sẽ tạo ra chiếc máy ghi âm "giấy biết nói" đầu tiên của Nhật Bản như một sản phẩm. Không có quốc gia nào khác trên thế giới có tỷ lệ thâm nhập sử dụng máy ghi âm trong giáo dục cao như ở Nhật Bản. Phát triển kênh bán hàng trong trường học là một bước đột phá lớn. Tiếp theo, chúng tôi sẽ phát triển một thứ mang tính thời đại sử dụng "đá" cho bóng bán dẫn. Sony sẽ tiếp tục phát triển những sản phẩm mơ ước mới mà mọi người muốn hết cái này đến cái khác.
Xe máy và ô tô của Honda bắt đầu bằng việc cải tiến động cơ radio nhỏ được sử dụng bởi quân đội và lắp đặt nó trên xe đạp trên những cánh đồng bị đốt cháy ở Hamamatsu, tỉnh Shizuoka. Động cơ của anh ấy là muốn mua chiếc xe đạp của vợ mà anh ấy đã phải rất vất vả mới mua được và nghĩ: "Nếu lắp động cơ vào thì mình sẽ dễ mua hơn". Sau đó, ông đã phát triển động cơ của riêng mình. Tôi đã tháo rời nhiều xe máy nước ngoài và nghiên cứu tích lũy. Được thành lập như một công ty cổ phần vào năm 1948 với 20 nhân viên.
Phát triển một loại xe đạp có động cơ mà ngay cả phụ nữ cũng có thể lái dễ dàng, loại xe này đã phổ biến trên toàn quốc. Vào những năm 1960, nước Mỹ gặp vấn đề về khí thải xe hơi. Chính Honda đã đối mặt với thách thức về khí thải từ ô tô. Năm 1972, Honda đã phát triển một loại động cơ ít gây ô nhiễm, xóa bỏ luật kiểm soát khí thải, điều được cho là không thể.
Nhật Bản sẽ đăng cai Thế vận hội Tokyo vào năm 1964. Tokyo đã phát triển rất nhiều kể từ Thế vận hội Olympic. Mặc dù chưa đầy 20 năm trôi qua kể từ đống đổ nát, nhưng nó đã sánh vai với các thành phố lớn trên thế giới. Nhật Bản bước vào thời kỳ tăng trưởng kinh tế cao. Và sau đó là vấn đề ô nhiễm. Vấn đề ô nhiễm này đã trở thành một phong trào toàn quốc, và việc cứu trợ cho các bệnh nhân ô nhiễm và chuẩn bị khắc phục ô nhiễm đã được thực hiện ở nhiều nơi. Tại Nhật Bản, sự phát triển của công nghệ loại bỏ khói từ ống khói và làm sạch nước thải. Đồng thời, phát triển hệ thống an sinh xã hội và phúc lợi nhằm bảo vệ sinh kế và hướng tới cuộc sống sung túc của người dân. Nó cũng được đặc trưng bởi sự tiến bộ đạt được trong việc tạo ra một xã hội mới giữa những mâu thuẫn của tăng trưởng kinh tế nhanh chóng. Hệ thống lương hưu mà mọi công dân đều tham gia để họ có thể yên tâm sống ngay cả khi đã nghỉ hưu và hệ thống bảo hiểm y tế quốc gia để họ có thể đến bệnh viện mà không lo bị ốm, đã được nâng cao. Bảo hiểm thất nghiệp, bảo hiểm y tế, bảo hiểm việc làm cũng được phát triển để người dân yên tâm làm việc. Hệ thống việc làm kiểu Nhật Bản đã nâng cao ý chí làm việc của mọi người bằng cách chăm sóc cuộc sống của họ trong suốt phần đời còn lại sau khi gia nhập một công ty. Tại nơi làm việc, một nền văn hóa được tạo ra, trong đó mọi người đều trân trọng đồng nghiệp của mình và làm việc một cách sáng tạo với mong muốn cải thiện.

Một công ty coi trọng người làm việc và một ban quản lý mà tất cả nhân viên đều tham gia

 

Cách quản lý doanh nghiệp lý tưởng coi trọng người làm việc cũng đã lan rộng. Nhiều người đã phát triển từ các doanh nghiệp nhỏ thành các tập đoàn lớn. Ngay cả khi là một công ty nhỏ, nó vẫn tiếp tục phát triển nhờ tuân thủ triết lý quản lý của công ty là coi trọng nhân viên và đóng góp cho xã hội. Một công ty lạm dụng công nhân của mình đến một lúc nào đó sẽ phá sản, ngay cả khi nó đã phát triển thành một công ty lớn.
Ở Nhật Bản, kể từ thời Edo, việc quản lý công bằng xã hội, nguyên nhân làm hết sức mình cho thế giới và cho mọi người, đã được thực hiện giữa các thương nhân. Ngay cả trong thời kỳ Minh Trị, tinh thần vì chính nghĩa trong kinh doanh đã được thực hiện bởi các nhà quản lý tiêu biểu của Nhật Bản như Eiichi Shibusawa và Magosaburo Ohara.
Kazuo Inamori, người sáng lập Kyocera, một công ty chịu trách nhiệm sản xuất các bộ phận cốt lõi cho ô tô và đồ điện tử, trở nên nổi tiếng quốc tế với tư cách là người quản lý đã xây dựng lại Japan Airlines bị sụp đổ. Trong lĩnh vực điện thoại di động, ông thách thức công ty viễn thông NTT độc quyền của Nhật Bản và thành lập au. Ông vừa là nhà nghiên cứu, vừa là kỹ sư phát triển đồ gốm mỹ nghệ, biến vật liệu làm đồ gốm trở thành một ngành công nghiệp tiên tiến nhất. Anh cũng là một người khởi nghiệp từ một công ty nhỏ.
Ngay sau khi công ty được thành lập, khi công ty đi đúng hướng và thuê 9 nhân viên mới, chưa đầy một năm sau, đã có một cuộc nổi dậy của nhân viên vì mức lương thấp. Vì đó là một công ty nhỏ, anh ấy là một nhân viên quan trọng. Tuy nhiên, không phải công ty nào cũng có thể trả lương theo yêu cầu của nhân viên. Điều tôi học được từ những nhân viên trẻ lúc này là tất cả nhân viên nên được làm giàu về vật chất và tinh thần, và để mọi người được hạnh phúc, người quản lý phải cố gắng quản lý với sự tham gia của tất cả mọi người.
Chúng tôi sẽ coi trọng công bằng xã hội và làm việc để phục vụ thế giới, con người và xã hội. Đừng bao giờ ích kỷ. Động lực của tôi là luôn tự hỏi bản thân xem nó có tốt hay không. Triết lý của công ty là nhấn mạnh việc giáo dục triết lý. Kyocera, đã phát triển thành một công ty lớn, vẫn tuân thủ triết lý quản lý này ngay sau khi thành lập. Theo nghĩa này, có thể nói rằng đó là một doanh nghiệp có công bằng xã hội vì lợi ích của thế giới và con người. Vì nước, vì nước, làm việc vì chính nghĩa là động lực của trưởng thành.

Học tập là động lực để phát triển

 

Bằng cách học hỏi, bạn có thể hiểu nguyên nhân và suy nghĩ về vai trò xã hội thực sự của mình. Và họ biết điều kỳ diệu khi làm việc với công bằng xã hội. Chúng tôi trân trọng các đồng nghiệp của mình và thông qua sức mạnh hợp tác của mọi người, chúng tôi trở thành nguồn năng lượng tuyệt vời cho công ty. Người ta nói rằng nó sẽ không áp dụng một hệ thống dựa trên hiệu suất thúc đẩy lợi ích cá nhân và lợi ích cá nhân. Triết lý quản lý Inamori không phải là cái gọi là hệ thống quản lý trọng dụng nhân tài, mà là coi trọng năng lượng hợp tác thông qua quản lý dựa trên sự tham gia tự nguyện của tất cả nhân viên, coi trọng triết lý sống vì thế giới, vì con người và vì xã hội. là.
Sau sự sụp đổ của nền kinh tế bong bóng vào năm 1990, xã hội Nhật Bản và các công ty Nhật Bản đã bị chấn động mạnh. Nền kinh tế Nhật Bản cũng sẽ trì trệ. Ngày càng có nhiều lĩnh vực bị Hàn Quốc và Trung Quốc vượt mặt. Đặc biệt, chúng ta đang phải đối mặt với một tình huống gay gắt về cạnh tranh giá cả. Kyocera đã kiên trì nghiên cứu và phát triển sản xuất năng lượng quang điện trong 30 năm kể từ khi còn là một công ty nhỏ để đóng một vai trò quan trọng trong xã hội. Thay vì chỉ hoạt động vì lợi nhuận trước mắt, chúng tôi định vị mình là một công ty mang lại niềm tự hào và ý nghĩa cho công việc của chúng tôi với mục đích đóng góp to lớn cho xã hội loài người. Nhân viên Kyocera đang tích cực phát triển các lớp học về cuộc sống và môi trường tại các trường tiểu học thông qua sản xuất điện mặt trời.
Nhà máy điện mặt trời lớn nhất của Nhật Bản đã được hoàn thành ở Kagoshima vào tháng 10 này. Sản xuất điện quang điện đang nhanh chóng lan rộng ở Nhật Bản trên mái nhà, nhà máy và bãi đất trống. Theo cách này, tăng trưởng kinh tế của Nhật Bản bao gồm kinh doanh ngắn hạn và phát triển công nghệ đóng góp cho nhân loại từ góc độ dài hạn.
 Nhật Bản sẽ tiếp tục phát triển công nghệ tiên tiến của mình, không chỉ về mặt cạnh tranh về giá mà còn cả những gì mọi người trên thế giới mong muốn hiện nay. Mọi người trên thế giới đang đấu tranh với điều gì? Từ quan điểm đóng góp cho xã hội với tư cách là một con người, chúng tôi sẽ tiếp tục trân trọng sản xuất coi trọng chất lượng. Đây là văn hóa sản xuất ở Nhật Bản và là hình ảnh của Nhật Bản đã đạt được sự tăng trưởng kinh tế toàn cầu từ đống đổ nát của thời kỳ hậu chiến. Trong khi khám phá sự hợp tác quốc tế và đánh giá cao nền văn hóa của mỗi quốc gia, Nhật Bản sẽ chịu trách nhiệm về sự phân công lao động quốc tế để cùng tồn tại và cùng thịnh vượng.
Hồ Chí Minh đã cống hiến cả cuộc đời mình cho nền độc lập của Việt Nam. Lời kêu gọi độc lập của Việt Nam nhận được sự đồng thuận trong nước và thế giới vì nó có công bằng xã hội phổ quát về quyền độc lập dân tộc và chủ quyền quốc gia.

Bất chấp mọi khó khăn, chúng ta đã giành được độc lập nhờ vào trí tuệ tập thể của nhân dân. Chính nhờ trí tuệ của người dân mà Nhật Bản đã có thể vươn lên từ đống đổ nát sau chiến tranh và đạt được sự phát triển kinh tế.
Chúng tôi mong rằng giao lưu giữa hai nước sẽ dẫn đến hòa bình và phát triển ở châu Á, sự cùng tồn tại và thịnh vượng của mỗi quốc gia, mỗi dân tộc. Và chúng ta hãy đóng góp chung cho nhân loại từ góc độ toàn cầu, dựa trên công bằng xã hội. Hãy cùng chúng tôi tạo ra nhiều mô hình phát triển kinh tế bền vững tại các cộng đồng địa phương ở Việt Nam và Nhật Bản. Muốn vậy, chẳng phải phải phát triển giáo dục và học tập vì sự phát triển bền vững trên phạm vi cả nước hay sao?
Kể từ thời Minh Trị Duy Tân, người Nhật đã tạo ra một nền văn hóa mà mọi người đều có thể học hỏi. "Khuyến nghị học tập" của Fukuzawa Yukichi mô tả tinh thần hiện đại hóa của người Nhật. Hãy đọc cuốn sách này và suy nghĩ về tinh thần độc lập.

 

戦後の廃墟からなぜ日本は発展できたか。それは、学び。

 敗戦直後の廃墟の日本

 日本は第2次世界大戦によって、広島と長崎に原爆が落とされ、東京、大阪、名古屋、神戸、鹿児島など空襲によって廃墟となった。その被害は、世界史上、最大のものであったといわれる。
 日本の戦後国民は、なにもかも失った。まさに、廃墟からたちあがったのである。日本は、廃墟になったが、豊かな心はのこった。国民は高い学ぶ意欲があったので、大きな夢と希望をもっていたのである。日本は明治維新以降に、国民的に学問の普及が行われて、国民がみんな学ぶという文化的風土をつくりあげ、教育制度も著しく発展していた。
 戦後は、すべての県にあたらしい国立大学をつくった。戦前に専門学校であった学校が、大学になっていった。廃墟という物質的には、貧困であったが、学校をくまなくつくった。とくに、実業教育と教養教育に力を入れた。
 高等学校、中学校、小学校も新しい時代のなかで、教育体制を充実させた。1970年には、ほとんどの生徒が高校に通うようになった。学ぶことによって、廃墟の国を立て直していった。それと同時に、民主主義を実現するために、国民的な運動も積極的に展開された。廃墟のなかで、新しい社会を作ることに日本の国民は、燃えていた。労働組合、農民組合、農業協同組合青年団、婦人会、中小企業団体、経済団体など活発に地域や職場で、努力するば豊かになるという確信で、教育活動を展開していく。

 農村での生産学習

 国民の学びは、荒廃から豊かな日本の社会をつくろうということで、学校教育だけではなかった。地主制がなくなり、農民の生産意欲は大きく高まった。戦前の日本は、植民地によって、食糧を維持していた。敗戦によって、植民地はなくなり、終戦直後の日本の食糧難は深刻であった。廃墟になった東京でも、いたるところが畑になった。国会議事堂の前の広場も畑になった。
 わたしは東京で育ったが、幼い頃は、畑だけではなく、にわとりを100羽ほど飼っていた。子どもにとっては、学校給食は、重要な空腹をみたすものであった。東京タワーの近くで、東京のど真ん中でもみんな食糧にこまった。復興のための作業と同時に、東京の近郊に食糧を買い出しにいくのが大切な仕事であった。
 敗戦後、日本は、10年後に主食の米の自給を達成していくのである。農民の生産意欲は、農業生産高を戦前の水準より、大きく超えていく。各地で生産学習ということで、青年が工夫して、次々と新しい生産の方法を開発していった。
 わたしは、1944年の生まれであるが、小学校の低学年のときは、毎日のように学校の庭での畑作業をさせられた。爆弾があちこちに埋まって、畑の作業も中止になることも多かった。授業は、2部授業といって、校舎がきわめて不足していて、午前と午後にわかれていた。小学校の低学年でも畑作業をさせられていたのである。国民みんなが、明日の未来を信じて、がんばっていたのである。しかし、小学校の高学年になると、勉強と遊びという子ども生活がおくれるようになる。

 戦後の日本経済をリードした企業




 戦後の日本の経済発展をリードした多くの企業は、小さな工場から出発して、世界的な大企業になっていった。ソニーは、1946年に創立された。東京の白木屋デパートの3階の一室からはじまった。白木屋デパートは、空襲から焼け残った。しかし、建物の周りのコンクリートはヒビ割れ、窓ガラスさえない吹きさらしの粗末な一室である。
 井深 大(いぶか まさる)たちは念願の会社の看板を掲げた。会社ができ、自分たちの持てる技術を世の中に役立てたいという目的はあった。しかし、正直言ってどの仕事から手を付けてよいか分からなかった。 最初の給料こそ井深が貯金をはたいて皆に渡したものの、会社を存続させるためには、何か仕事をしなくてはならない。それで思い付いたのが、ラジオの修理と改造である。ラジオの修理の次に研究所で手がけたのは、電気炊飯器。二十数名の小さな会社であった。
 売れに売れた電気座布団"は、井深が考案した。また、どんなことがあってもテープレコーダーをやりたいと一大決心をしている。何とか無理を言って進駐軍の将校にテープレコーダーを会社まで持って来てもらった。テープレコーダーは、アメリカでもできたばかりの貴重品である。製品として日本初の「もの言う紙」のテープ録音機をつくりあげる。日本ほど教育におけるテープレコーダー活用の浸透率が高い国は、世界にない。学校に販路を開拓していったことが大きな躍進であった。トランジスタに“石”を使う画期的なことを次に開発していく。SONYは、次々と国民が求めれる新しい夢の製品を開発していくのである。
 バイクや自動車のホンダは、静岡県浜松の大空襲の焼け野原のなかで、陸軍で使用していた無線用小型エンジンを改良して、自転車に取り付けることからはじまった。動機は、苦労して買い出しをしていた妻の自転車に「エンジンをつけたら買い出しが楽になる」との思いからである。そして、独自にエンジンを開発していった。たくさんの外国のオートバイを分解して研究をかさねていった。1948年株式会社として設立したが、従業員20名。
 女性でも簡単に運転できる原動付き自転車を開発し、全国的にうれていく。1960年代にアメリカは自動車の排気ガスに悩んだ。自動車の排気ガスに真正面から挑戦したのがホンダであった。1972年にホンダは、不可能といわれた排気ガス規制法をクリアーする低公害のエンジンを開発したのである。
 日本は、1964年に東京オリンピックを開催する。東京は、オリンピックを契機にして大きく発展した。廃墟から20年も経過していないにもかかわらず、世界の大都市と同じように肩をならべる。日本は、高度経済成長に入ったのである。そして、次は公害問題に悩まされる。この公害問題は、国民的な運動になり、各地で公害患者の救済、公害克服のための整備がされていく。日本は、煙突からの煙を除去、排水を浄化する技術開発がされていく。国民の暮らしを守り、豊かな暮らしをしていくために社会保障や福祉の整備も同時にされていく。高度経済成長の矛盾のなかで、新しい社会づくりが進んだことも特徴である。退職しても安心して暮らせるようにと国民みんなが加入する年金金制度、病気になっても安心して病院にいけるようにと国民健康保険制度などが充実していった。国民が安心して働けるようにと失業保険保健、雇用保険も整備された。 日本的な雇用制度は、会社に入社したら生涯にわたって、生活の面倒をみるというしくみが、国民の働く意欲を向上させた。そして、職場のなかで仲間を大切にしながら、みんなで向上心をもって、創造的に仕事に打ち込む気風がつくられていった。

働く人を大切にする企業と全員参加経営



 働く人を大切にしていく企業経営のあり方も広まった。零細企業から大きな企業に成長していったのも少なくない。零細企業のもとでも、社員を大切にし、社会のために貢献していく会社の経営理念を貫いているところは継続して発展していった。働く人を酷使した企業は、一時的に発展して、大企業になっても、いつかは、倒産した。
 日本では、江戸時代から社会的な正義、世のため、人のために尽くす大義の経営は商人のなかでも行われてきた。明治になっても商売における大義の精神は、澁澤栄一、大原孫三郎という日本の代表的な経営者によって実践されている。
 京セラという自動車や電気などの中核的な部品生産を担っている企業の創設者の稲盛和夫は、つぶれた日本航空を再建した経営者として国際的にも有名になった人である。携帯電話では、日本の独占的な通信会社のNTTに挑戦して、auを創設した人である。かれは、陶器の材料を最も先端産業にしたファインセラミックを開発した研究者であると同時に技術者でもあった。かれも零細企業から会社をたちあげた人である。
 創業まもないが、会社が軌道にのって新しい社員を9名やとったとき、1年足らずして、給料が安いということで社員から反乱があった。小さな会社であったので、大切な社員であった。しかし、社員の要求どおりに給料を払える会社でなかった。このとき若い社員から学んだことは全従業員の物資的なこと、心のことも豊かにして、みんなが幸せになるために経営者は、全員参加の経営に努力することであると悟るのである。
 社会的正義を守り、世のため、人のため、社会のために尽くすために働くことを大切にしていく。決して、私欲にはしらないこと。動機は、善であるかどうかと自分自身、常に問いかけることをした。会社の理念として、フィロソフィーの教育を重視しているのである。現在も大企業に成長した京セラは、この創業後まもない経営理念を貫いている。この意味で、世のため、人のためという社会的な正義をもつ大義の経営ということがいえよう。世のため、人のために、大義のもとで働くということが、成長の原動力になっているのである。

 学ぶことが発展の原動力



 学ぶことによって、大義を理解し、自己の真の社会的役割を考えることができる。そして、社会的な正義をもって働くことのすばらしさを知るのである。仲間を大切にし、みんなの協同の力によって、会社としての大きなエネルギーになっていくのである。個々の自己利益、私欲をあおっていく成果主義はとらないとしている。稲盛経営哲学は、いわゆる能力主義的な管理システムではなく、世のため、人のため、社会のためというフロソフィーを大切にしての自発的な全員参加による経営による協同のエネルギーを大切にしているのである。
 1990年以降のバブル崩壊後に、日本の社会、日本の企業のあり方も大きく揺らいでいる。日本経済も停滞していく。韓国や中国に追い抜かれていく分野も増えている。とくに、価格競争ということでは、厳しい局面にたたされている。京セラは、小さな会社のときから、社会的に重要な役割を果たすということで30年間にわたって、頑固に太陽光発電の研究開発をしてきた。決して、当面の利益のみによって経営するのではなく、人類社会に貢献するという大義をもって、仕事に誇りと意義をもたせるために会社としても位置づけたのである。京セラの社員は、ソーラー発電をとおして、小学校で暮らしと環境の出前授業を積極的に展開している。
 この10月に鹿児島に日本最大のメガソーラーの発電を完成させたのである。各家庭の屋根、工場、また、空き地に太陽光発電が急速に、日本では普及している。このように、日本の経済成長のなかには、短期的な商売と、長期の視野をもっての人類的な貢献をしていく技術開発がおこなわれているのである。
 日本は最先端の技術をもっともっと発展させて、価格競争という側面ばかりではなく、世界の人びとが今、何を求めているのか。世界の人びとが何に困っているのか。人類的な社会貢献の視点から、品質を大切にしてのものづくりを今後も大切にしていくことでしょう。これが、日本のものづくりの文化、また、戦後の廃墟から世界的に経済成長を遂げた日本の姿である。 国際的な連携を模索し、それぞれの国の文化を大切にしながら、共存、共栄の国際的な分業を日本は担っていくことでしょう。
 ホーチミンは、ベトナムの独立のために生涯をかけた。ベトナムの独立のよびかけが、国民的な、世界的な共鳴を受けたのは、民族の独立の権利、国の主権という普遍的な社会的な正義をもっていたからである。

どんな困難ななかでも、独立を達成したことは、国民の協同の英知の結集があったからである。日本が戦後の廃墟から立ち上がっていくことも国民的な英知があってこそ、経済発展をすることができたのである。
 両国の交流によって、アジアの平和と発展、それぞれの国、民族の共存、共栄を願うものである。そして、世界的な面から社会的な正義のもとに、人類的な貢献を共にしていこうではないか。それは、持続可能な経済の発展のモデルを、ベトナムや日本の地域社会に数多くつくっていこうではないか。それには、国民的な規模で持続可能な発展のための教育、その学びを展開していくことが必要ではないか。
 日本人は、明治維新から国民みんなが学ぶ文化をつくってきた。福沢諭吉の「学問のすすめ」は、日本人の近代化の精神を書いたものである。ぜひこの本を読んで、独立の精神を考えてほしい。

 

 

ホーチミンの独立思想と有徳精神

ホーチミンの独立思想と有徳精神

 ホーチミンは、儒学者である家に1890年生まれ、生涯ベトナムの独立と自由、民主主義に捧げたベトナム国家の指導者である。ホーチミンは、1945年9月2日ハノイのバーディン広場で50万人以上のベトナム市民が集結するなかで、独立宣言を読み上げた。
 しかし、ベトナム人は、その後、この独立の宣言にもかかわらず、フランスからの独立戦争アメリカとの独立戦争・経済封鎖という極めて困難な道を歩まなければならなかった。

 ベトナムの独立宣言は、1776年のアメリカの独立宣言の精神であるいかなる民族も平等で生きる権利、幸福の権利と自由の権利をもっていること、フランス革命の人は生まれながらにして自由平等と博愛の精神をもつ権利があるということで、ベトナムに、その政治社会経済制度と精神を築いていこうと全国民にホーチミンがよびかけたものである。ベトナムの独立と自由の精神は、アメリカの独立宣言、フランス革命の思想から学んだのである。

 ベトナムは長いフランスの植民地政策によって、民族的文化が奪われ、愚民政策を押しつけられた。ベトナムの独立にとって教育は、大きな課題であった。ホーチミンは、独立宣言をした1945年の9月20日に、「老人は黙って静かに暮らしているいるべきか」と年をとった人びとによせる手紙を書いている。

 「われわれはもう年をとっている。われわれはもう何の野望もないのだ。現代の問題をひきうけるのは、われわれの子どもたちがいちばんふさわしい。われわれは死に近づきつつあり、もうわれわれが積極的である必要はないんだ」という考えに、愛国者は、年をとったからといって決して怠けるものではありません。独立と自由はいまいまかちとられたばかりです。われわれは多くの困難を切り抜けなければなりません。老いも若きも同じように責務を双肩に負って努力しなければなりません。私たちの子どもは若いし、大きな仕事をやりぬくでしょう。年をとったわれわれは大きな仕事をすることはできません。しかし、杖にすがりながらも、率先してかれらをはげまし、自分の経験をかれらにわけてやりましょう。わたしたちは年長者なのですから、子どもたちに模範を示すために、まず心から団結しなければなりません」。

 ベトナムの独立と自由のために老人も大きな役割を果たすことができるとしている。老人は豊富な人生経験をもち、愛国的精神をもって若い人をはげまし、自分の経験を若者にわけてあげるべきとしている。 独立宣言は、フランス植民地主義者との厳しい戦いを強いられた。家屋と財産を犠牲にして疎開をしなければならない事態も作りだされたが、1947年2月17日に、困難の中で生きていかざるをえない国民に、愛情をこめて、幸福を気づかっているホーチミンの言葉がうかがえる。疎開した同朋の食物、宿舎、仕事を保障しなければならず、誰も怠けることはできない。

 資本をもっている同朋は、一緒に小企業を組織し、苦労している疎開者を助けることをしなければなりません。疎開している人も自分たちの職業を続けなければなりません。ひとたび仕事をもったからには、勤勉に働き、経済にはげまなければならない。独立が達成されたときは、わたしたちはともに幸福を喜びあいましょう。

 ホーチミンは、1947年3月1日に公務についている同志諸君への手紙として「われわれが排除すべきくつかのこと」と有徳の確立の重要性を強調している。
 今や我が国は死ぬか生きるか、滅亡するか生存するかの岐路に立っている。ですから各同志ならびに全組織は、祖国に統一と独立のためにすべての心と力をささげなければならない。各同志はならびに全組織は、明敏で賢く、用心ぶかく、決断力をもち、勤勉に、そして、心を一つにしなければなりません。地方根性、派閥主義軍国主義と官僚制度、狭量さ、形式主義、机上の仕事、不規律・弛緩、利己主義・不道徳を排除しなければならない課題としてあげている。

  地方根性の一例として、自分の地方には、できるだけたくさんの幹部や資材おにぎっていて、より高級の機関が必要なところへ幹部や資材を動かそうとしても、それに応じないということ。
 派閥主義は、自分が懇意にしている人たちにたいしては、その人たちがまちがっていても、そのいうことを聞き、その人たちに何の能力もないときでさえ、かれを用いるということ。天賦の才能があっても、自分と意見の一致しない人びとをふり捨て、いかに正しくとも、その人たちの意見に耳を傾けることを拒否するということ。

 軍国主義官僚主義は、一地方を預かっている小さな王様のようにふるまうこと。尊大であり、高圧的であること。自分よりすぐれた人を軽視し、権威者を悪くいい、自分の部下に重くのしかかること。傲慢な態度で人びとをおどすこと。この専横な精神的態度は、多くの反感やあつれきをもたらし、高級機関と下級機関の間や、組織と人民との間にさけ目を掘ってしまう。 狭量さは、だれでも長所と短所をもっている。長所を利用し、欠点を正すように助力しなければならない。狭量な人は、友人が少ないという結果になり、他人から少しの援助しか受けられない。

 利己主義・不道徳は、公の財産を自分自身のものにし、権威や仕事を乱用して、取引ひで金持ちになることに没頭し、公務よりも個人の仕事の方を重く、考えたりする。 わたしたちはみな、慎みぶかくなければなりません。わたしたがベテランであり、有能であればあるほど、わたしたちの慎みぶかさは、大きくなければなりません。わたしたちは、進歩にたいする熱望をもち、心の中にわたしたちの師のことばを、つねに保持していなければなりません。「学ぶこと、学ぶこと、そして、学ぶこと」。うのぼれと自己陶酔は、ただわたしたちの進歩を妨げるだけでしょう。

 皆さんは一般に、我慢強さ、厳密さ、縦横な機略、進取の気性というような、多くの性質をもっているが、これらは、他の道徳を発展させるための基礎として役立つ、非常に貴重な性質であるが、大きな困難お重大な仕事をもつこの時期においては、これらの性質では不十分であり、この立派な基礎を、いままであげた欠点を決然として正すために利用しさえすれば、わたしたは完全に成功することになるであろう。ホーチミン・坂本徳松他訳「解放の思想」日本語訳1966年絶版、143頁~150頁参照。

 以上はホーチミンが公務にたずさわる北ベトナムの同志への1947年3月の手紙のなかでのベトナムの独立と自由を勝ち取っていくための「われわれが排除すべき不道徳なこと」 の克服の重要性を強調している。ホーチミンの解放思想は、地方根性、派閥主義軍国主義官僚主義、利己主義、拝金主義を克服していくことが必要なのである。つまり、有徳を確立していくことは、極めて大切な課題としている
 ベトナムは、独立宣言後9年間、フランスの再侵略に対して、独立を勝ち取った。1954年のジュネーブ協定によって1956年7月に総選挙が実施されることになった。しかし、現実は、そうならなかった。アメリカとの戦いがはじまるのである。1955年8月31日に軍隊英雄に対する講話をホーチミンはしている。

 そこでは、おごりたかぶってはいけない、たえず進歩のために努力することの必要性を指摘している。英雄は個人的成果としではなく、集団的な成果として、革命的道徳をみがくことを強調しているのである。

「英雄のみなさんは、みな傑出した成果をあげ、すぐれた革命的道徳を身につけている。このことは、けしてこのぐらいで十分だと考えたり、おごりたかぶったりしてはならない。たえず進歩するために、たえず努力しなければならない。・・・・・英雄のみなさんは、つぎのことをよく理解する必要がある。みなさんの栄誉はきわめて大きく、みなさんの任務はきわめて重大である。みなさんは、つねに努力し、たえず進歩しなければならない。仲間たちにたいして謙虚に、よく親しみ、あらゆる面で模範とならねばならない。

 政治、専門技術、文化教養の学習に努力しなければならない。革命道徳をみがき、つねに批判と自己批判を行わなければならない。けっして、おごりたかぶったり、自分はもうたいしたものだと考えたりしてはならない。つぎのことを、つねにおぼえておかなければならない。成果は集団の成果であり、英雄は集団の英雄であって、個人的な成果、個人的な英雄ではないのである。これは全軍の共通の栄誉であって、個人の栄誉ではない。要するに、わが民族が英雄的な民族であり、わが軍が英雄的な軍隊であるからこそ、軍隊の、そして民族の競争英雄が生まれるのである」。ホーチミン・加茂徳治他訳「わが民族は英雄」58頁~61頁参照・絶版



 ホーチミンは英雄をたたえるとともにおごりたかぶってはいけいない、たえず政治、専門技術、文化教養の学習と自己のあてえられた仕事に努力することを求めているのである。批判と自己批判を大切にして、革命的道徳を高めていくことを強調しているのである。現在、ベトナムは急速に経済発展をしている国である。あらためてホーチミンの解放思想を今、真剣に考える時期ではないか。
 ベトナム民族の英雄的な歴史をふまえながら、日本とベトナムの友好発展を経済交流をとおして果たしていく時期ではないかと考える。日本という国は、現在、政治、経済、文化、教育とあらゆる面で大変な状況におかれている。東日本大震災や国際的な金融不安、円高とそれにおいうちをかけているが、ベトナムの独立と自由、民主主義をかちとってきたホーチミンの解放思想からも学ぶべきことがたくさんある。

 

 

パン作りとピーナツバターの実習と講義

パン作りの実習と講義

パン作りの基本は、こねることからはじめます。小麦粉とイースト菌、塩などを混ぜてよくこねて、生地をつくります。粉と水がよくなじみ、原料の生地が熟成して香りのよい風味になるようにするのです。
 そして、生地を発酵させるのです。発酵温度はイースト菌が活動しやすい温度の32度から35度、こね上げ温度は、24度から30度の範囲ということで、温度が大切なのです。発酵は一次発酵、分割して成形しての二次発酵です。成形はパンの表情をつくる大切な作業です。無理にのばしたりまるためたりすると焼いときに破裂の原因になります。休ませながらやさしく扱うのです。平均的にふくらむように、かみそりなどの形をいれての最終発酵とがあります。
 そして、焼いて生地に火を通す工程の焼成になります。
 
問題(1)
 どうしてイーストを入れるとパンはふくらむのでしょうか。不思議な世界とは思いませんか。イーストとは生きている微生物です。発酵の仕組みを考えてみよう。
 
生徒たちが演習室でまずパンとピーナツバターをつくっていました。
Aクラスは月、水、木曜日の午後 Bクラスは火、木、土曜日の午後
演習時間は14時から17時の3時間です。また、AとBクラスはそれぞれ半分に分けました。
A1グループがパンを、A2グループがピーナツバターをつくります。
次の日はA1グループがピーナツバターを、A2グループがパンをつくります。
Bクラスも同じです。
 
パンはまず麦粉を使います。
慣れた後、米粉を使ってつくります。大きな挑戦です。
写真は麦粉のパンです。
生徒たちは「青いストライプ」のエプロンをかけます。
先生は「茶色のストライプ」のをつけます。
 
 

f:id:yoshinobu44:20211117122807p:plain

f:id:yoshinobu44:20211117123022p:plain

f:id:yoshinobu44:20211117123109p:plain

f:id:yoshinobu44:20211117123155p:plain

f:id:yoshinobu44:20211117123230p:plain

f:id:yoshinobu44:20211117123306p:plain

f:id:yoshinobu44:20211117123337p:plain

f:id:yoshinobu44:20211117123415p:plain

f:id:yoshinobu44:20211117134641p:plain

f:id:yoshinobu44:20211117134714p:plain

f:id:yoshinobu44:20211117134739p:plain